THỜI TIẾT SỐNG ÐẠO
NHỮNG THÁI ÐỘ VÀO ÐẠO

Linh Mục Hoành Sơn, SJ, Việt Nam

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

Ðã là cây, thì không thể không mọc lên từ một mảnh đất và tăng trưởng nhờ chất đất ở đấy, dù đất có được bón tốt từ những gì lấy từ ngoài vào. Ðất nói đây là khí chất của anh, đi đôi với văn hóa, giáo dục và giới tính. Từ ngoài đến, ân sủng phải biến đổi tất cả từ gốc, nhưng ân sủng lại hành động với những cái đã sẵn có tự nhiên nơi anh. Bởi thế mới phải đặt ra ở phần A vấn đề này.

Có điều cái nền tảng là con người tự nhiên cũng chẳng bất biến đâu. Nó thay đổi với thời gian, bé trẻ khác, lớn già lại khác. Cho nên, cách sống đạo của trẻ thơ không thể y hệt với của ông (bà) lão.

Việc sống đạo lại dễ gặp khủng hoảng mạnh khi đụng đầu với tai ương cũng như lão-bệnh-tử. Ðứng trước những thử thách lớn, lắm khi bất ngờ ấy, làm sao đứng vững đây? Nhất là lợi dụng được? Chết cũng ở đó, mà tái sinh cũng nhờ đó luôn. Nên cần sức viện trợ mạnh từ Chúa và những chuẩn bị gấp từ bây giờ.

Dù trên thửa đất hay trong hoàn cảnh nào, thì phản ứng và hậu quả vẫn khác xa nhau từ người này sang kẻ nọ, do ân Chúa cố nhiên, mà cũng do mức độ quảng đại của ta nữa. Nghĩa là vừa có phần của đồng vốn ký thác, vừa có cách sinh lời từ đồng vốn này. Anh muốn đem chôn nén bạc hay dùng nó sinh lời đây? Anh buôn bán nhỏ thôi hay lao đầu vào công việc với tham vọng thật lớn? Thiên Chúa vốn rộng rãi sẽ chẳng chịu thua anh về sự hào phóng đâu.

Thời tiết do tuổi

Do thân xác mà con người thuộc thiên nhiên, nên đổi thay với thời tiết. Mùa xuân chả hạn là mùa dễ động xuân tình, khiến dù trẻ hay già, dù nữ hay nam, nếu muốn tự chủ và tiến đức, cần biết liệu gió giong buồm.

Mỗi cuộc đời thường cũng trải qua một vòng xuân hạ thu đông như thế. Trẻ thì lập xuân ở ấu thời và xuân phân ở tuổi cập kê. Lớn thì hạ chí lúc "tam thập như lập" và vào thu khi trán nhăn có vết. Ðây cũng là khi kinh nghiệm có dư, mà dũng khí không còn đủ cho những cuộc phiêu lưu mới. Vậy hãy lao vào các giấc mơ nên thánh khi chưa quá muộn. Dĩ nhiên, có những người trẻ lâu hơn tuổi, cũng như ơn Chúa có sức "cải lão hoàn đồng" thiêng liêng. Có điều đây là trường hợp khác thường, nghĩa là chẳng thường xảy ra. Bởi thế, vẫn cứ nên tùy tuổi mà đổi cách sống đạo.

Với trẻ thơ, thì mẫu mực của chúng là mẹ, rồi cha, rồi thầy cô. Nên bài giảng cho chúng chính là tấm gương sống động của những vị ấy. Tiên sa Lisieux học cầu nguyện bằng cách ngắm ông Martin cầu nguyện. Và cảm nghiệm được tình Cha Trời qua tình cha dưới thế, khiến chị phát khóc mỗi khi xướng "Lạy Cha...". Bởi thế, trách nhiệm của ba má là trách nhiệm cực lớn. Trách nhiệm làm gương tốt trước tiên, kế đó trách nhiệm chọn cô thầy, bạn chơi, nhà trường cho con cái. Chọn cả đồ chơi, sách đọc và phim coi nữa. Ðể dạy trẻ yêu Chúa, họ phải sốt sắng nguyện cầu. Ðể dạy trẻ đức thành, phải tránh điều dối trá. Ðể dạy trẻ trung tín, thì phải biết giữ lời. Ðể dạy trẻ lòng nhân, hãy thương xót kẻ khốn cùng và đối xử tốt với con mèo con chó.

Lúc trẻ tới tuổi ương ương, hãy bớt ra lệnh và tìm cách thuyết phục. Ðối với chúng, đây là lúc phải bắt đầu học giáo lý, đọc truyện thánh và gia nhập một đoàn thể. Khả năng hy sinh và hăng say nên thánh đã có ngay từ tuổi lên mười, như với cậu bé Saviô, cậu Stanislas Kotska. Ðến tuổi mười bốn, Stanislas đã vững một lối sống. Dù bị chế diễu và hành hạ, cậu quyết không đi vào con đường ăn chơi như chúng bạn và anh em. Hơn thế, cậu dám đổi áo quý tộc lấy áo nông phu khi trốn nhà ra đi tầm đạo, vừa ăn xin vừa cuốc bộ suốt 600 cây số đến Ðức, rồi 1200 cây số đến Rôma để vô Dòng Tên, bất chấp những đe dọa của gia đình. Cậu đã có gan phiêu lưu của một người trẻ, sự kiên trì và chín chắn của một người lớn, cũng như sự hướng nội của một người đứng tuổi.

Quả thật, cái thánh chẳng hề đợi tuổi, trừ tuổi thơ, có lẽ. Thanh thiếu niên dễ cầu bằng múa hát, vì họ còn hướng động. Nhưng nhiều bạn dù rất trẻ vẫn có thể nhập thiền hoặc chìm đắm trong suy chiêm, thậm chí đạt huyền nghiệm. Có điều đối với phần đông, họ nên khai thác điểm mạnh của họ là hoạt động, dấn thân. Họ có thể niệm suy và lấy làm mẫu sống một đức Yêsu nay đó mai đây vì hạnh phúc của loài người. Hoặc một Phan sinh Xavier chết gục trong chờ đợi trước cửa ngõ cánh đồng truyền giáo Trung quốc. Hoặc một cha Damien nên cùi với người cùi, một mẹ Tiên sa Calcutta dẫn đầu cả một đạo quân đông đảo của lòng nhân và vị tha.

Người trẻ đã năng động còn lạc quan nữa, nên sống với ngày mai hơn là với hiện tại. Vậy họ hãy phát triển đức Vọng và sống vì một lý tưởng. Họ có thể hướng về ngày mai của một thế giới tình thương để đấu tranh chống hận thù và kỳ thị như Gandhi và Martin Luther King. Họ có thể hướng về điểm cánh chung của sự hoàn thành Vương quốc Chúa khi xả thân loan Tin mừng.

Theo Guy Lescanne, thì người trẻ hôm nay không ưa thần tượng cho bằng những người mẫu (modèle), không thích làm bản sao cho ai khác, mà muốn có gì, thành gì riêng nữa. Nên hãy giúp họ noi gương thôi, chứ đừng rập khuôn. Giúp họ suy nghĩ để tự tìm ra con đường mình và tự rèn lấy một nhân cách. Vâng, muốn phiêu lưu vào con đường nên thánh, nhất là thánh dấn thân, thì phải bắt đầu ngay khi còn trẻ.

Quả thật, lúc đã về già, tuy tính trầm lại đấy, nhưng cái gan lại bé đi. Gặp nhiều thất bại rồi, người ta dễ sinh yếm thế. Và người ta nghĩ về quá khứ trong tiếc nuối, nghĩ về cái chết trong ưu phiền. Ðây là lúc nên suy về ý nghĩa cuộc đời và đắm chìm trong cầu nguyện. Ðể tin tưởng và lạc quan lên, hãy nghĩ nhiều đến hạnh phúc Thiên quốc và nhìn Thập giá dưới ánh sáng Phục sinh.

Tương lai của người già là ở đám trẻ con cháu họ. Với cháu con đông đúc và nên người, họ sẽ an tâm nhắm mắt, thấy rằng tuy chết, vẫn như sống tiếp phần nào. Nếu đan sỹ và tông đồ không có con theo xác thịt, họ vẫn có con theo Thần khí. Vâng, dù biết hay không, họ đã góp công khó nhọc sinh ra cho Chúa những người con. Mai ngày trên Thiên quốc, hai bên sẽ nhận ra nhau và mối tình sẽ đằm thắm. Vậy dù già hay gần chết, người ta luôn có một tương lai để hướng về, và đây là tương lai của dòng tộc thiêng liêng. Họ có thể quan tâm đến đám người mà trong đời họ từng đã giúp. Quan tâm cả đến những kẻ mà họ có thể sinh ra cho Chúa dù trong tình trạng khốn khổ hôm nay bằng nguyện cầu và hy sinh chấp nhận vòng xoay bệnh lão tử.

Những hoàn cảnh-giới hạn

Ðây là những hoàn cảnh cùng cực mà người người phải trải qua, như sự chết và những rủi ro, như sự cô đơn và tội lỗi theo danh sách của Karl Jaspers.

Chúng ta hãy nói đến lão-bệnh-tử và đau khổ. Những cú sốc mạnh nhất bắt gặp ở đó, những cú sốc dai dẳng chúng rình rập trên từng bước đi. Có thể nói, chúng là thành phần tất yếu và quan trọng của cuộc sống, do đó cũng là thành phần không bao giờ thiếu của sống đạo. Làm sao đây để bước đi vẫn bình ổn dù với những cơn đất động liên hồi, có khi tới bảy tám độ Richter? Làm sao đây để địa chấn càng khủng khiếp thì đức tin càng vững và sức sống dồi dào? Phục sinh chỉ hừng lên từ bóng mây thập giá nếu thập giá được chấp nhận và khéo lợi dụng.

Hãy bắt đầu với cái chết. Chết là điểm tới của bệnh, lão, trong khi khổ đau là cái chết của tâm hồn.

Theo Martin Heidegger, thì sống là Hiện hữu-vì-sự chết. Hiện hữu của ta chìm sâu giữa thời gian, nên sống là Có-đó (da-sein), tức bị ném giữa dòng đời trong cô đơn (déréliction), trong lo hoảng (angoisse). Sống là vươn tới, nên cũng là lo tới (souci). Có điều đây là vươn tới cái chết hay phủ định cái sống, phủ định hiện hữu.

Ðứng trước vực thẳm hư vô mà con người bước dần vào, thường khi vì sợ mà nó trốn lẩn giữa đám đông vô danh của Người ta (on), vừa cố quên cái chết, vừa cố trốn khỏi cái chính mình. Một hiện sinh không trung thành với ý nghĩa của nó: Ðể nên xứng đúng (authentique), nó cần đến ý thức và quyết định. Ý thức hay giác ngộ về ý nghĩa và hướng tới của cuộc sống; quyết định tự đón trước (anticiper) định mệnh nói trên. Và đây là vén màn che kín nó để trở về với chính mình.

Nếu Heidegger cho rằng hiện hữu vọt lên từ hư không, thì Phật giáo lại lấy hư không làm cốt lõi của hiện hữu. Tuy hư không là nội dung của cả không gian bên ngoài và không gian bên trong tôi, nhưng do tham si, tôi lại coi tất cả là có thật: có thật cái ngã nó đang ham muốn, có thật luôn những đối tượng mà nó mong chiếm đoạt. Do đó mà sinh khổ. Khổ vì sự hiện hữu của cái Tôi nó tham mà chưa được, nó sân khi mất đi. Khổ nữa vì cái ngã bị đồng hóa với xác, mà xác thì điêu đứng vì lão bệnh tử, điêu đứng ngay từ khi "đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra".

Theo "Phật gia Tây phương" Schopenhauer, thì chỉ có Ý muốn - sống mù quáng nó nằm chơ vơ đó, chứ kẻ (cá thể) muốn thì không. Do cái Ý muốn chẳng thuộc ai này mà nảy sinh Tình yêu, cái tình nó là mồi nhử cho người ta lao đầu vào việc bảo vệ giống nòi, như những chú thiêu thân dại dột vậy.

Cho nên, giải pháp Phật giáo là ra khỏi si mê bằng ý thức đúng, tức Chánh kiến. Nhà sư sẽ tự nhủ: Tôi đâu phải xác thân, nên chết đâu phải là tôi. Và ông sẽ nhìn thẳng vào khổ đau và cái chết bằng cặp mắt bàng quan, miễn nhiễm.

Ðâu là ý nghĩa đúng Kytô-giáo của sự sống và sự chết? Vâng, đâu mới là "chánh kiến" của chúng ta?

Kytô-giáo không nói: Tôi không phải xác thân. Nhưng Kytô-giáo có thể nói: Tôi không chỉ là xác thân, mà còn có gì cao hơn xác thân nhiều. Nhờ đó, cú sốc của sự chết đã bớt tầm khủng khiếp của nó.

Kytô-giáo cũng khuyên "đón trước" cái chết bằng chấp nhận và hiến dâng. Vả lại, Kytô-giáo không coi cái chết là tận kết, do đó ngõ cụt, nhưng là cửa mở vào phục sinh nhờ đòn bẩy Thánh giá Chúa. Dưới ánh sáng mầu nhiệm chữ Thập này, cái chết tuy còn là hoàn cảnh - giới hạn đấy, nhưng giới hạn ấy đã được gài mìn để nổ tung khi đức Kytô dùng cái chết để phủ định nó. Cái chết không là ngõ cụt nữa, mà đường đi; không còn sinh tuyệt vọng, mà hy vọng. Cái chết đã cùn đi phần nào sự sắc nhọn của nó. Tôi nói "phần nào" thôi, vì dẫu sao, chúng ta còn sống trong sự tranh tối tranh sáng của đức tin. Ngay đến Tiên sa Avila, dù đau đớn ghê gớm lúc cảm nhận ngày về (với Chúa) còn xa, thế mà đôi lúc vẫn phát run trước ý tưởng chết. Còn với Tiên sa Lisieux trước lúc chết, thì đây là "đêm tối hư vô", "hấp hối thuần túy", "không một dấu vết của an ủi".

Có điều nếu đức tin mạnh, thì sự chết cũng bớt phần ảm đạm. Do đó để chuẩn bị cho nó, ta phải nuôi dưỡng đức tin ngay từ bây giờ. Ðể củng cố đức tin, phải cầu ơn và niệm suy. Cũng cần nhìn thẳng vào cái chết để "đón trước" nó. Và đấy là đi vào "chánh kiến". Sự thực về cái chết đang đến khi được nhận ra sẽ cảnh tỉnh những ai còn nhiều ham hố và giúp họ tìm ra ý nghĩa Kytô-giáo của cả sự sống lẫn sự chết. Vâng, sống ở đời không phải là toàn sống. Và đường cứu độ phải đi qua thánh giá để tới phục sinh. Vâng, dù nghĩ đến sự chết và thập giá, một Kytô-hữu đúng danh phải liên hệ chúng với phục sinh và thăng vinh, nhờ đó sống và tăng trưởng trong đức Vọng.

Có điều đừng hình dung phục sinh như một trở về với cái xác dưới dạng hôm nay, và thăng vinh như một thiên đường kiểu tại thế, tức hạnh phúc bình thường không bóng mây đau khổ. Ðây là thứ cõi Tiên hay Thiên mà Phật giáo còn đặt trong vòng tham si và trong cõi luân hồi. Do thái giáo xưa cũng vọng tưởng một thiên đường tại thế, một Nước Chúa giữa trần gian như thế. Và như thế lắm Kytô-hữu hôm nay mơ tưởng một sống lại trong thân xác cũ, một bất tử theo nghĩa kéo dài, một thiên giới với đầy đủ tiện nghi. Họ chưa thật sự chết đi với thế gian này để xứng đáng với một sự sống khác hẳn, sự sống trong Ðấng là Khác viết hoa, Khác hoàn toàn. Một luyện ngục cần đến mai sau sẽ giải thoát họ khỏi bóng mây và vấn vương ấy.

Không ai chối rằng, vì đấng là Tinh thần đã nhập thể, nên mặt đất cũng thoảng mùi da thịt đấng Chí tôn. Có điều, để hoàn tất việc cứu thế, Ngài phải đi vào sự chết để mở đường cho ta bước sang một sự sống đổi khác. Vậy cứ yêu sự sống này, nhưng yêu tùy vào (en fonction de) một sự sống khác hẳn mai sau.

Chẳng những đón trước (anticiper) cái chết vì chết là đường đi, mà còn đón trước vì đây là biểu hiện tình yêu nữa. Vì yêu ta, Chúa đã chết để cứu ta. Ðến lượt ta vì yêu Chúa, sẵn sàng chết đi với Chúa, chết vì Chúa. Chẳng những chấp nhận chết, Marie de l'Incarnation còn sẵn lòng "sa hỏa ngục" để thượng tôn đức công minh của Thiên Chúa, khi mà hỏa ngục quả xứng với tội con người. Bắt chước nữ tu rất thánh ấy, ta cũng có thể chấp nhận cái chết với tất cả lo sợ và khốn khổ kèm theo như điều thích xứng với ta, mà chỉ xin giữ lại cho ta tình thân của đấng đã yêu ta đến cùng tận.

Nhờ thái độ Ðón trước này (đối với cái chết), từ thế thụ động ta đã chuyển sang chủ động. Ðây là Tri mệnh và Thuận thiên mệnh, là đi con đường Chúa Yêsu để thành bà con với Chúa (Mc.3.35) trong giây phút quyết định của cả cuộc đời. Vâng, đây là lúc hoàn thành mình, như Rahner nghĩ. Thành ác hay thiện vĩnh viễn là do chết dữ hay chết lành đấy. Ta càng vững đi hơn khi chính Chúa đã đi vào sự chết của ta, cùng với ta. Nếu khi ta khổ, có Chúa khổ với ta, thì khi chết cũng vậy nếu ta chấp nhận nó vì Ngài. Ðồng hành với ta trong sự chết, Chúa để lại dấu hiệu đồng hành ấy ở phép Xức dầu bệnh nhân và Thức ăn đường Thánh thể. Dìm mình vào cái chết của Chúa bằng ký hiệu huyền tích, ta dễ vượt qua triền gốc gập ghềnh của lão bệnh tử nhờ sự đồng hành của Chúa và sức mạnh vọt lên từ thập giá Chúa.

* * *

Nếu giờ chết là phút giây gấp gáp trong đó ít ai bình tĩnh nổi, khiến nhẫn chịu được đã là tốt rồi, thì trong lão bệnh và khổ đau, người ta thường không đến nỗi hụt hơi như thế. Vậy ở đây, con người dễ chủ động hơn và tác chiến có kế hoạch được. Cái đáng lẽ là địa ngục cho con người, hãy biến nó thành lò luyện cho Tín vọng ái. Bằng cách đón trước, tức sẵn sàng, thậm chí ước ao. Tùy thái độ thụ hay chủ động ấy, cũng như tùy mức tin yêu như động cơ, mà bộ mặt thiêng liêng biến đổi.

Ý thức và quyết đón trước những hoàn cảnh-giới hạn của cuộc đời, đó là thái độ đúng xứng và hiện sinh đúng phận. Nếu ý thức đủ sáng và đón trước đủ chân thành, thì không khỏi đụng bể đầu trước một cái chết như ngõ cụt phi lý theo cách nhìn của Heidegger. Vâng sự "lo đến" (souci) sẽ thành vô nghĩa, khi mà cái anh quan tâm chỉ là ngõ cụt.

Sự hanh thông mà hy vọng phục sinh tạo nên cũng không phải là lối thoát bằng ảo tưởng. Do cái chết của Thầy, những hoàn cảnh-giới hạn kia đã mở về Vô hạn rồi. Niềm đau vẫn còn đó, nhưng dưới bóng râm thập giá, nó đã dịu đi, khiến người ta có thể đạt được sự bình an của Chúa.

Nếu suy như thế và cầu nguyện rồi, mà nỗi đau vẫn mạnh hơn niềm tin, thì ta có thể đi vào một thư giãn tâm lý. Ta có thể để mặc "nước đổ lá khoai", mặc cho các ý nghĩ và tình cảm chúng đến rồi chúng đi, và lòng sẽ êm lại để đức tin hiện tỏ.

Ðứng trước lão bệnh, người ta cảm thấy bớt gay cấn hơn là đứng trước cái chết. Nhưng chết, người ta chỉ chết một lần thôi, chứ bệnh thì nối tiếp không ngơi, và lão triền miên không dứt. Bệnh hay lão đều khổ cả, và khi khổ dai dẳng, người ta khó bình tĩnh được.

Ngoài bệnh thân ra, còn có bệnh tâm. Tâm bệnh càng trị khó, và gây phiền cho xung quanh cũng nhiều. Bệnh còn hy vọng chữa khỏi, chứ tật thì bất trị, khiến nhân phẩm bị xung quanh hạ thấp và đương sự sống trong bóng tối dày đặc, không tương lai. Vâng, hãy hình dung một người cụt chân cụt tay hay mặt mày dị dạng, một người điếc, đui, câm hay ngây dại suốt đời...: Làm sao để họ tìm thấy chút sinh thú hầu sống nốt quãng "đời thừa" đây?

Ngoài tật bệnh ra, còn cả trăm thứ khổ khác, như đói nghèo, bị xa lánh, khinh khi, thành trẻ mồ côi hay bị người tình phụ rẫy. Rồi những tai ương bất thần ập đến, như đất động, núi lửa phun, như hỏa tai, bão lụt, đất truồi, như chạy giặc, trộm cướp, v.v... Biết bao cảnh tang tóc và chia ly diễn ra hằng ngày khắp nơi trên thế giới, khiến dù không trong cuộc cũng cảm thấy cuộc sống đáng buồn và quá bấp bênh. Làm sao đây để giữa mịt mờ, vẫn còn thấy đốm sao hy vọng? Làm sao đây để khi sóng gió vùi dập vẫn vững được mái chèo? Nhất là làm sao để biến những tai họa ấy thành cơ may nên thánh?

Lúc mà trong tôi còn nhiều ham hố, hãy lợi dụng những bi cảnh để giải bớt vấn vương. Bằng khi cay đắng đã tràn ly, thì nên nghĩ tới điều vui, kẻo căng quá nhỡ sinh "stress". Ðây không phải cái vui của dật lạc hay cái quên trong ly rượu, khói phù dung, mà sự an ủi của Ðấng đã tới chia sẻ với ta kiếp sống phù du này, kể luôn sự chết. Nếu như thế, mà vẫn không tan đám mây, thì hãy cầu cứu đến một hai giải trí lành mạnh. Ðây là vài bản nhạc êm vui, chứ không kích động, một phim truyện đầy tình người, chứ không đầy bạo lực, khiêu dâm. Tiếp đến là vào thiền để tâm an. Hay nguyện cầu để có thể khóc.

Sau khi căng thẳng giảm dưới mức báo động rồi, tôi bắt đầu lợi dụng thương đau để tiến. Bằng cách tuân ý Chúa, cố nhiên. Thêm một bước, bằng cách hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm Vườn dầu, trong hướng đi đồng cứu chuộc. Có Chúa bên tôi, tôi bớt sợ, bớt lo. Có Chúa với tôi, sẽ được nhiều an ủi. Có Chúa nơi tôi, sức chiến hẳn dồi dào.

Ý nghĩa sống đạo I: tránh tai họa, lập công quả

Trong Yếu chú (annotations, lời dặn) đầu sách Thần thao, thánh I-nhã dạy ta tùy cơm gắp mắm, cứ theo tâm trạng, khả năng và chí hướng của thụ thao mà biến chế thần thao cho họ. Riêng với kẻ thô lậu và văn hóa thấp, chỉ nên giúp họ suy về hình phạt, luật Chúa cùng với việc lành, việc giữ ngũ quan là đủ. Giảng cao hơn, chắc họ không lĩnh hội được đâu.

Người đến tĩnh tâm hay dự tuần đại phúc hẳn không thuộc phường cùng hung cực ác; và giả như trước đây là thế, thì nay cũng nghĩ lại rồi. Thật thì kẻ tinh tế, có căn cơ thiêng liêng, với ơn Chúa thúc có thể xoay 180 độ. Như trường hợp Augustin bỏ tối ra sáng, hay trường hợp Phaolô, đang là kẻ bắt Chúa bỗng nên sứ đồ của Ngài. Nhưng với phần đông người đời, tội thì không gớm lắm mà thánh cũng thấy xa vời trên mây. Họ chỉ muốn tránh khổ hình hỏa ngục, thế thôi.

Sùng đạo hơn, một số kẻ muốn bớt tội và lập công quả. Lập công quả, theo Phật giáo, mới chỉ là đường của cư sỹ, còn trong tham si, nghiệp quả, luân hồi. Thứ đạo "lập công" (mérites) này không bị Kytô-giáo coi khinh, nhưng nó khiếm khuyết từ căn bản. Khiếm khuyết do đích nhắm là thứ thiên đường đặt bên cạnh Thiên Chúa. Khiếm khuyết do lòng tham: tham hay ham thứ hạnh phúc ấy, chứ chưa có tình yêu vị tha đối với đấng Chí tôn. Vâng, thiên đường đúng Kytô-giáo là bản thân Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không phải đối tượng ham muốn, mà đối tượng để yêu thương.

Có điều thứ đạo của tham si kia thường vẫn ngỏ cửa về một đạo cao hơn do hướng nhắm của ân sủng khi mà tín đồ không có ý khép lại ở một thứ thiên đường thấp kém như vậy. Dù sao, những tham si còn sót phải được thanh lọc ở thế giới bên kia. Vâng, Nước Chúa là khác hẳn, nên với những ước mơ chưa thoát khỏi hương vị trần, thì tôi chưa thể thuộc trọn về Nước Chúa:

Vậy, bằng chánh kiến và đón trước, hãy cố siêu thoát và vươn cao hơn một thứ thiên đường nó là bản sao của thiên đường tại thế. Nghĩa là hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống: tất cả vì Thiên Chúa và sự cứu độ trong Chúa, nhờ đức Kytô. Rồi hiểu đúng vai trò "phương thế" của những gì còn lại: cái giúp đi vào hướng ấy thì dùng, còn cái cản ngăn thì từ bỏ. Ngoài ra, phải nhớ kỹ: thân xác không phải là tất cả con người, và sự cứu vãn cho con người nằm ở tinh thần cơ.

Ðể giảm sức trì kéo của xác, ta có thể tạm dùng kỹ thuật của Phật gia: điều hòa hơi thở, rồi nghĩ xem thân xác này gồm những gì. Ắt là nó gồm phèo phổi với tim gan, đầu mình với đít bụng, có chỗ còn khai thối nữa; mà chết rồi, thì trông gớm biết bao. Cũng phân tích xem cuối cùng thì xác thịt là gì. Là một số chất căn bản như C, H, O, N, chúng qua lại không ngơi giữa hai môi trường Trong tôi và Ngoài tôi, chứ chẳng có gì của riêng tôi, chẳng có gì đáng giá lắm. Thế rồi tôi có thể lờ đi từng phần và tất cả, để ham hố không còn chỗ bám, tự nó sẽ tan đi. Tôi cũng làm thế với ngoại vật, với hết thảy những gì tôi quyến luyến, sao để chúng hễ xuất hiện là trôi qua, chẳng có gì cần, có gì quan trọng cả. Theo nhà Phật, chỉ khi giác quan (lục căn) bắt gặp đối tượng (lục trần), thì luồng điện (kích thích) mới phát. Ðây là lúc con mắt thịt chạm thân hình người khác phái, cái mũi thịt chạm mùi thức ăn ngon, cái tai tục tiếp thu tín hiệu của hư danh và thế lực. Bởi vậy, phải ly cách giác quan với đối tượng khi cái tâm chưa vững đủ, đồng thời luyện sao cho cái tâm ấy thành miễn nhiễm đối với những kích thích kia.

Với cùng một mục đích ấy, tu đức học Kytô-giáo khuyên ta niệm về sự chết, thẩm xét, địa ngục, thiên đường. Theo ý tôi, nếu niệm về sự thoảng qua của cuộc đời, ta sẽ thấy dễ và có hiệu quả hơn. Cứ hình dung cảnh xưa xe ngựa, gác tía lầu son, mà nay đó đây chỉ còn cỏ hoang, phế tích, và ta sẽ cảm khái ngâm câu: "Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương". Ðây cũng là cảnh hoa phù dung sớm nay còn khoe sắc, chiều về phai nhạt rồi.

Cứ thế mà niệm, và rồi ta sẽ thấy lòng tham dịu, dứt. Mà dứt tham, thì duyên đâu còn để nối lục trần với lục căn, để sinh giận, tiếc và bất an khi những chướng ngại cản đường? Lòng tham trụ ở ba điểm gốc: sở hữu, nhục dục, ý riêng. Vậy để diệt tham, phải chặt cho kỳ được ba gốc ấy. Chặt gốc sở hữu bằng nghèo, ít là trong tinh thần. Chặt gốc nhục dục bằng hãm mình, tiết chế. Và chặt gốc ý riêng bằng "làm ngược" (agere contra). Ðể chánh kiến (thấy rõ sự thực), chúng ta đi vào chánh niệm. Chánh niệm giúp khởi động những tâm tình tốt để chuyển sang việc làm, hầu củng cố những tâm tình nói trên.

Ði đôi với chánh kiến, chánh niệm, chúng ta có thể tiến vào kyï giới như Phật tử. Phật tử giới bỏ ba tội phạm bằng thân: giới sát, giới đạo (trộm cướp), giới dâm. Lại giới bỏ bốn tội phạm bằng miệng: vọng ngôn (nói láo), ác khẩu, lưỡng thiệt (ăn nói lật lọng), ỷ ngữ (nói hoa mỹ bên ngoài thôi). Sau cùng, giới bỏ ba điều phạm bằng ý: tham, sân, si. Công giáo chẳng thường nói đến những tội "lòng lo, miệng nói, mình làm" đó sao?

Chẳng những giới thập ác, Phật tử còn phải làm ngược lại bằng thập thiện nữa. Thiết nghĩ, thay vì mắc kẹt ở thập ác, chúng ta hãy dồn sức cho thập thiện vì chúng tích cực nên sinh hứng khởi. Vả lại, khi yêu điều lành rồi, thì đâu có ham điều ác đối nghịch nữa.

Vậy hãy tập đánh giá mỗi cái theo đúng giá trị của nó trong tương quan với cứu cánh. Cùng lúc, giữ sao cho tâm luôn ngay chính và siêu thoát, từ ái và trắng trong. Lại phải nói sao cho xứng đáng, hành cho lương thiện, sống cho hợp đạo làm người.

Ý nghĩa sống đạo II:
tinh thần nhiệm vụ, thái độ không vấn vương

Tránh phạt và lập công chưa hẳn là thái độ luân lý đúng nghĩa. Giả như không có thiên đường và hỏa ngục mà vẫn lánh ác làm lành, thì mới là đạo đức chính hiệu. Sống tốt chỉ vì đây là điều tốt, đó là con người chính trực, biết bổn phận làm người.

Ðể chu toàn bổn phận này, phải có giới, có quy. Giới truyền bỏ điều không xứng, quy dạy làm cái đáng làm. Giới dành trước tiên cho kẻ muốn lánh tội, quy dành cho ai muốn vô nẻo ngay hoặc đang tiến đức.

Về tiến đức, thực ra cũng có ba bảy đường tùy thứ động cơ thúc đẩy. Người chỉ muốn làm đủ bổn phận, kẻ khác quảng đại hơn, dám bỏ những gì có quyền giữ, dám làm những cái không buộc làm. Lý do là họ nuôi lý tưởng nên thánh. Nhất là khi hơn thế, họ bị cuốn hút bởi tình yêu.

Trong tiểu đề này, ta đề cập đến hạng người trên, những kẻ sống đạo vì tinh thần nghĩa vụ. Họ là những tâm hồn chính đại quang minh, có sao nghĩ thế, thấy sao nói vậy, đáng sao quyết thi hành đúng, đủ mới thôi. Thường họ rất trung tín với lễ, với luật, và tinh thần trách nhiệm rất cao.

Ðể vững trên hướng thiện này, Phật giáo áp dụng Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh nghiệp.

Chánh nghiệp là hành động theo như đã xét suy, phân định bằng Chánh kiến. Còn Chánh tinh tấn thì đưa Chánh kiến vào đến tim gan, ra đến cuộc sống, tập mãi không thôi, luyện sao cho tâm nên thẳng ngay, trong trắng, và vui yên trong sự lương chính này. Muốn được như vậy, sách Phật dạy phải diệt phiền ưu. Ưu sầu thường tỏa bóng mây đen trên cuộc sống, khiến nhụt chí phấn đấu và phủ mờ tâm tư, khiến tâm không còn đủ trong cho ánh sáng phân định. Kytô-hữu thời đầu quả sống trong niềm an lạc và hứng khởi thiêng liêng (agalliasis, Tđcv. 2.46...), sự hưng phấn mà Phaolô luôn mong mỏi cho mọi tín đồ (Rom. 15.13). Vui vì Thầy đã phục sinh, vui vì tràn trề hy vọng; phấn khởi vì niềm vui và hy vọng ấy sinh ra nghị lực và sự táo bạo, vừa để đi làm chứng dù chết, vừa để leo dốc đạo dù vất vả, khó khăn.

Trong niềm hưng phấn này, hãy luôn nghĩ đến những gì cao quý, để hồn nhờ đó cũng cao đẹp, trắng trong thêm. Nên thánh là đường dốc thẳng ngược, nên không thể vững leo nếu thiếu niềm hứng khởi đó. Hoan lạc và hưng phấn, tôi có ý nói đến niềm hoan hứng sâu xa và thiêng liêng, chứ nếu đây là sự vui nhộn bề mặt thì chúng chỉ kéo ta ra ngoài về hướng những lạc thú; và nếu đây là an tĩnh thụ động khiến ngại đổi thay, thì thái độ cầu an ấy sẽ ngăn cản phiêu lưu bên trong, dấn thân bên ngoài. Một niềm an vui đúng nghĩa siêu nhiên bao giờ cũng thúc đẩy tiến bước, tiến vững, và nó tương tại được với sóng gió và khổ đau.

Ðể tinh tấn hóa cái tâm, thì suy niệm rất cần. Không chỉ niệm các đức, Kytô-hữu còn niệm gương những đức ấy. Và đây là Chúa Yêsu "khiêm và hiền từ trong lòng". Ðây là Ðức Mẹ thuận ý Trời trong tiếng "Xin vâng". Ðây là thánh Phaolô mà "sống là đức Kytô, đấng chết treo thập giá".

Niệm rồi, còn phải luyện nữa, Người ta có thể bắt chước các sa môn Ấn, Phật mà chịu đựng đói khát, dãi dầu nắng mưa, bớt những tiện nghi chúng tăng thịt giảm thần, chịu sỉ nhục để lòng thêm khiêm tốn, tập bỏ ý riêng để thoát khỏi cái Tôi.

Như trên đã nói, kẻ sống vì bổn phận thì bó mình trong những nguyên tắc và luật lệ. Ðúng là bổn phận khách quan luôn "thành thịt" ở luật lệ và nguyên tắc. Và kẻ sống trong khuôn khổ của luật lệ và nguyên tắc thì nói, làm đúng lễ, khuôn, với một thái độ thẳng ngay. Có điều, những quy định khách quan ấy thuộc phạm vi ý tưởng, mà ý tưởng thì chính xác và tổng quát, trong khi thực tại lại thiên hình vạn trạng, biến đổi không ngơi, ranh giới dễ lờ mờ. Vì thế, nếu phải trọng nguyên tắc, thì khi áp dụng vẫn cần uyển chuyển, sao cho thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau.

Lại nên nhớ rằng: hình thức chỉ có giá nhờ nội dung, hành động chỉ có giá nhờ động cơ và ý hướng. Bởi thế, phải nhấn vào tinh thần, do đó vì tinh thần, đôi lúc phải để nguyên tắc sau lưng. Vâng, đã siêu thoát thì phải thoát hết, để chỉ một mình Thiên Chúa là cần, và là cần những gì không thể thiếu để giúp ta đạt tới Chúa.

Sống vì bổn phận đã là một sống đạo khá cao, lại vững nữa. Vì kẻ trung thành với bổn phận cũng là kẻ ngay thẳng và có tinh thần trách nhiệm, do đó dễ trưởng thành về mặt nhân bản và đạo đức, khiến cho bước tiến của họ tuy hơi chậm đấy, nhưng không bấp bênh. Họ chỉ cần thêm mấy đức nhu để cho tâm bớt khô, hành động bớt cứng. Và coi chừng cái kiêu dễ bám theo những đức chí cương như vậy.

Ý nghĩa sống đạo III: hiến dâng quảng đại

Dù sao thì sự chính trực cũng chỉ giúp đi trong giới hạn của những khuôn khổ, nên chưa cho phép bốc cao trong sự thong dong của Thần khí. Thái độ siêu thoát có đưa vào sự thong dong này, nhưng vì siêu thoát còn trong khuôn khổ, nên thong dong cũng giới hạn luôn. Siêu thoát là nghèo trong tinh thần: khiêm nhường bậc hai theo cách đánh giá của Thần thao I-nhã. Khiêm nhường cấp ba, vừa có thái độ siêu thoát của bậc trước, vừa có tình yêu nó thúc ta nên giống Chúa để chọn sống nghèo hơn là giàu, chọn sỉ nhục hơn là danh giá, "được coi là dại, là điên vì Chúa Kytô, đấng cũng chịu rẻ khinh như thế". Thật ra, chỉ trong tình yêu, ta mới thấy mình như bay bổng, thoát mọi thứ ràng buộc và giới hạn. Nghĩa là chỉ trong tình yêu ta mới hoàn toàn tự do, khi mà siêu thoát thành mở ra, mở hết, chứ không còn giới hạn, dù là giới hạn của khuôn khổ, của mức độ. Maria đã dốc sạch bình thuốc thơm mười tháng lương công nhân, nên đúng là quá mức đối với ranh giới đạo đức, quá mức theo cái lý và sự tính toán của các tông đồ. Có điều đã là tình yêu, thì nó không thể tính toán, không có mức độ, ngoài mọi khuôn khổ. Thế mà chỉ bằng sức phóng vô biên của tình yêu, ta mới đạt tới bản thân Chúa Yêsu, để nơi Ngài ta cũng đạt tới bản thân Cha:

Vâng, hễ ở trong tình yêu, thì sống bằng Thần khí Chúa. Hễ vô quỹ đạo Thần khí, sẽ được bốc lên với tốc độ ánh sáng của Ngài. Và có thế mới đạt tới bản thân (bản vị) Thiên Chúa để hiểu Ngài, hiểu rằng Ngài là Yêu từ trong bản chất.

Quả thật, vì bản chất là Yêu, nên Chúa mới đánh giá đúng bình thuốc thơm của Maria. Bình thuốc ấy, giá trị nó không thể đo bằng 300 đồng tiền, mà bằng sự vô giá của ái tình. Tinh thần ngay chính, trọng nghĩa vụ, vẫn còn trong khuôn khổ của cân đo, vay trả. Nghĩa là nợ (nghĩa vụ) bao nhiêu, thì trả (thi hành nghĩa vụ) hết bấy nhiêu. Nên chỉ với tinh thần ngay chính thôi, ta sẽ không hiểu nổi vì sao Thiên Chúa cứu ta khi mà, đã mang ơn, ta còn phản bội. Ta càng không hiểu nổi khi mà, để cứu ta, Chúa đã vượt mức cần khi giáng trần và chịu chết.

Chính hành động phi tính toán, ngoài cân đo của Chúa đã sinh phản ứng dây chuyền cho cả chuỗi những hành vi quảng đại giống thế của biết bao đệ tử, những kẻ muốn lấy tình mà đền đáp ân tình. Và đây là những đệ tử chính tông, những thánh "đặc sản" Kytô-giáo!

* * *

Thật ra, chẳng ai đứng vững ở con đường nghĩa vụ (thái độ hai) mà lại không yêu Chúa và quảng đại một phần. Và dù có sống tình yêu (thái độ ba), do giới hạn của cảm tính, đêm tối của đức tin và cạm bẫy của thần tà, ai mà chẳng phải ức chế giác quan (trạng thái một), chu toàn nhiều nghĩa vụ (thái độ hai). Nên trong đời sống cụ thể, ba thái độ thường xen kẽ nhau, dung hòa với nhau, với một trong ba là chủ yếu, cùng với chiến thuật riêng của nó. Vả nữa, tình yêu vốn nhu nên dễ nhược, do đó cần đến một số kỷ cương để bảo vệ cũng như tăng độ chắc bền.

Nếu người thuộc thái độ hai đắn đo hơn, thì kẻ thuộc thái độ ba lại phiêu lưu hơn, muốn bỏ hết và cho hết, dù với những khuyết điểm lúc thi hành. Nếu thái độ hai đôi lúc phải cố vượt trên cân đo, thì thái độ ba khi vào việc cũng phải được lý trí soi sáng phần nào. Dù do khôn ngoan mà phải đôi phần thận trọng, kẻ sống cho tình yêu chỉ muốn làm theo Thần khí. Khi đã biết đúng đây là tiếng Thần khí rồi, họ sẽ không đắn đo nữa, mà vọt ngay theo tiếng gọi. Vâng, họ không lấy lý trí mình thay ánh sáng Chúa, mà chỉ dùng lý trí lúc cần để rà biết ý Chúa lắm khi khuất ẩn. Thái độ siêu thoát và trạng thái lắng nghe khiến cái tâm trở nên bén nhạy với tín hiệu từ Trời và mềm mại dưới ngón tay Thần khí. Thần khí không còn bị cản do ý muốn và trở ngại do phản xạ bản năng, sẽ dễ biến họ thành tác phẩm vừa ý mình, một kiệt tác.

Thế nhưng đã không có nhiều siêu phẩm như thế dù rất nhiều hiến dâng. Số là trong khi sốt sắng, người ta muốn từ bỏ hết và dâng hiến hết, nhưng mầm hiến dâng không khỏe và cây hiến dâng không có rễ sâu. Bởi thế, khi ngọn sóng cảm tính đi qua, người ta trở lại với những cân nhắc tầm thường khi hành động. Kẻ tận hiến thật thì tìm ý Chúa để dâng hiến, tựa vào sức Chúa để bước đi và kiên trung, chứ không ỷ sức mình. Một khi đã hiến thân nghiêm túc theo ý Chúa rồi, họ không nghe cám dỗ để đặt lại vấn đề bao giờ nữa, mà chỉ nhắm mắt thi hành thôi, dù có hứng hay không cũng mặc, dù thấy toàn bóng tối vẫn tin tưởng cất bước. Họ tự nguyện thật và kiên vững thật trong quyết định, chứ không làm cánh bèo nổi trôi theo thủy triều cảm tính.

Kẻ tận hiến thành thực và đạt thái độ ba (tuy còn ấu trĩ và chưa vững lắm) vẫn có thể là kẻ vừa rời bỏ đường tà. Xác thịt tuy còn nặng nề, nhưng hướng nhắm đã cao khi mà đức Ái Chúa Kytô tác động mạnh, khiến họ có thể quên mình vì Chúa và nói như Phaolô:

"Tôi tin chắc rằng: dù sự sống hay sự chết, dù hiện tại hay tương lai, dù thiên thần hay ác quỷ và các sức mạnh địa ngục, trên trời, vâng, dù bất cứ thụ tạo nào cũng không phân lìa nổi ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Yêsu Kytô Chúa chúng ta" (Rom. 8.38-39).

TÓM LẠI

Tâm lý khác nhau giữa trẻ với già, lớn với bé, do đó cách sống đạo cũng không thể hoàn toàn như nhau.

Trẻ thơ chịu tác động mạnh bởi gương xấu hay gương tốt, nhất là từ ba má, cô thầy. Nên bổn phận những vị này là phải sống gương mẫu, cũng như học phương pháp dậy trò, dậy con.

Từ lúc lên mười, trẻ bắt đầu muốn tự lập và chúng đủ khả năng nên thánh. Ðây là lúc giáo dục cần phải thận trọng, nhưng tế nhị hơn. Ðến tuổi thiếu, thanh, người trẻ vừa hướng động, vừa dễ yêu lý tưởng và có gan phiêu lưu. Họ phải nuôi ý nguyện nên thánh ngay từ lúc này, cũng như nuôi chí đấu tranh vì tương lai thế giới. Còn khi xế chiều rồi, ai nấy hướng nội dễ, nhưng phải cố gắng lắm mới còn chí phấn đấu và sự lạc quan.

* * *

Ðời người luôn cận kề với tai ương, lão bệnh, khổ đau và cái chết. Vậy hãy biết dọn mình bằng ý thức và đón trước đi. Ý thức nhờ kinh nghiệm và suy tư. Ðón trước bằng quyết nhận trong tin tưởng. Giả như nỗi đau, lo vẫn lớn hơn niềm tin còn yếu ớt, thì hãy tránh stress bằng những giải trí lành mạnh trước khi trở lại với suy tư và nguyện cầu.

Mức thánh thiện luôn tùy vào ơn Chúa cùng với sự hợp tác của tôi, trong đó quan yếu là thái độ vào đạo. Người ta không thể tiến xa nếu chỉ muốn tránh phạt hay lập công. Và sẽ khá hơn nếu sống vì nghĩa vụ. Kẻ thật sự bay bổng là kẻ có tâm hồn quảng đại, muốn hiến thân cho tình yêu.

Với kẻ vừa ngoi lên từ vũng bùn, vì xác thịt còn mạnh, việc tránh dịp tội và chế ngự nết hư là vô cùng cần thiết. Với kẻ yêu nhiệm vụ do tính tình ngay thẳng, họ hãy tập thêm siêu thoát và cố gắng khiêm nhu. Còn kẻ bơi trên sóng tình cũng cần chú tâm phần nào đến kỷ luật, nhờ đó vững đường tiến.

Tuy nói là ba thái độ đấy, nhưng chúng luôn xen kẽ trong cuộc sống, với một trong ba nổi bật tùy lúc, tùy người.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page