Quy Chế Tổng Quát

Sách Lễ Rôma

Canh tân theo nghị quyết của Công Ðồng Chung Vaticanô II

công bố theo lệnh Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI

hiệu đính dưới sự chỉ đạo của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Phiên dịch từ ấn bản mẫu thứ ba Nhà in Vaticanô - năm 2002

Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 18/06/2009


Lời Mở Ðầu

 

1. Khi Chúa Kitô sắp cử hành bữa tối vượt qua với các môn đệ, trong đó, Người thiết lập hy lễ Mình và Máu Người, thì Người đã truyền phải sửa soạn một phòng rộng lớn, với đầy đủ tiện nghi (Lc 22, 12). Hội Thánh luôn nghĩ là mệnh lệnh này cũng liên hệ đến mình, khi ấn định những điều giúp chuẩn bị tâm hồn, nơi chốn, nghi thức, bản văn liên quan đến việc cử hành Thánh Thể. Những quy tắc ngày nay được ban hành thể theo ý muốn của Công đồng Vaticanô II, cũng như sách lễ mới mà từ nay Hội Thánh theo Nghi lễ Rôma, sẽ dùng khi cử hành Thánh lễ, tất cả những điều đó lại một lần nữa nói lên sự lo lắng, niềm tin và lòng mến không thay đổi của Hội Thánh đối với mầu nhiệm Thánh Thể cao cả; đồng thời, những yếu tố đó cũng làm chứng về truyền thống liên tục và hòa hợp của Hội Thánh, mặc dầu có thêm một ít điều mới mẻ.

Chứng tích về một đức tin không thay đổi

2. Bản chất hy tế của Thánh lễ đã được Công đồng Trentô long trọng xác quyết, phù hợp với truyền thống chung của Hội Thánh; nay lại được khẳng định lại trong Công đồng Vaticanô II, với những lời rất có ý nghĩa sau đây về Thánh Lễ: "Trong bữa tiệc ly, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập hy lễ Thánh Thể, bằng Mình và Máu Người, để hy lễ thập giá còn tồn tại mãi qua các thời đại cho đến khi Người đến, và để trao cho Hội Thánh, hiền thê yêu quý của Người, lễ tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Người".

Ðiều Công đồng dạy trên đây vẫn không ngừng được diễn tả trong các công thức của Thánh lễ. Thật vậy, Sách lễ xưa thường được gọi là sách lễ Lêônianô có nói rõ: "Mỗi lần cử hành việc tưởng niệm hiến lễ này, thì công trình cứu chuộc chúng ta lại được thực hiện", giáo lý đó được diễn giải cách thích hợp và chính xác trong các kinh nguyện Thánh Thể; vì chưng trong các kinh này, khi cử hành nghi thức tưởng niệm, linh mục nhân danh toàn thể dân chúng hướng về Thiên Chúa, cảm tạ và dâng lên Ngài hy lễ sống động và thánh thiện, tức là hiến lễ và lễ vật của Hội Thánh mà chính Thiên Chúa đã muốn được sát tế để làm nguôi lòng Ngài; và linh mục cũng cầu xin để Mình và Máu Chúa Kitô trở nên hy lễ được Chúa Cha chấp nhận và sinh ơn cứu độ cho toàn thế giới.

Như thế là, trong Sách lễ mới, qui luật cầu nguyện của Hội Thánh phù hợp với qui luật ngàn đời của đức tin. Qui luật này dạy chúng ta rằng: hy lễ thập giá và việc tái diễn hy lễ đó cách bí tích trong Thánh lễ, mà Chúa Kitô đã thiết lập trong bữa tiệc ly và truyền cho các Tông đồ phải làm để tưởng nhớ đến Người, cả hai chỉ là một, mặc dầu cách thức hiến dâng có khác nhau. Do đó, Thánh lễ, một trật, vừa là hy lễ ngợi khen, tạ ơn, vừa là hy lễ xin ơn tha thứ và đền tội.

3. Mầu nhiệm lạ lùng về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh và hình rượu, đã được Công đồng Vaticanô II, và các văn kiện khác của Huấn Quyền xác nhận, với cùng một ý nghĩa và bằng cùng một ngôn từ như đã được Công đồng Trentô buộc phải tin. Trong khi cử hành Thánh lễ, mầu nhiệm ấy được công bố, không những bằng lời truyền phép làm cho Chúa Kitô hiện diện do việc biến đổi bản thể, mà còn bằng tâm tình và thái độ hết sức cung kính, tôn thờ phải có trong phụng vụ Thánh Thể. Cũng vì lẽ ấy, ngày thứ Năm Tuần Thánh, trong lễ tưởng niệm bữa Tiệc ly của Chúa và ngày lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa, dân Kitô giáo thường tỏ lòng tôn kính hết sức đặc biệt đối với Bí tích thật lạ lùng này.

4. Bản tính của chức linh mục thừa tác là chức thuộc riêng hàng Giám mục và linh mục, những vị được dâng hy lễ và chủ tọa cộng đoàn dân thánh trong tư thế của Ðức Kitô, cũng được đặt nổi bật trong chính hình thức của lễ nghi, vì linh mục có một chỗ và một nhiệm vụ đặc biệt hơn. Những đặc điểm chức vụ này được công bố và giải thích rõ ràng sâu rộng hơn trong lời tạ ơn của Thánh lễ làm phép Dầu, ngày thứ Năm tuần Thánh, ngày kỷ niệm thành lập chức linh mục. Thật vậy, trong lời tạ ơn nói trên, có đề cập rõ ràng đến việc trao ban chức linh mục do việc đặt tay, và quyền chức này được diễn tả với từng nghĩa vụ riêng biệt và là sự tiếp nối quyền chức của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế của Giao ước Mới.

5. Có một chức linh mục, theo bản tính, khác với chức linh mục thừa tác, cũng phải được coi trọng và hiểu theo đúng ý nghĩa của nó, đó là chức linh mục vương giả của các tín hữu, mà hy lễ thiêng liêng của họ được nên trọn vẹn khi nhờ thừa tác vụ của Giám mục và linh mục được liên kết với hy lễ của Chúa Kitô là Ðấng Trung gian duy nhất. Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể là việc của toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn công việc thuộc về họ, tùy theo cấp bậc của họ trong dân Thiên Chúa. Bởi thế, phải chú trọng hơn đến mấy khía cạnh của việc cử hành, mà qua nhiều thế kỷ, có lúc người ta ít lưu tâm đến. Vì chưng, dân này là dân Thiên Chúa, được cứu chuộc bằng giá máu Ðức Kitô, được Chúa quy tụ, được lời Chúa nuôi dưỡng, là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân, trong Chúa Kitô, dâng lời tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ, khi dâng hy lễ của Chúa Kitô; và, sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ việc thông hiệp với Mình và Máu Ðức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ tham dự ý thức, tích cực và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ liên lỉ tấn tới trên con đường thánh thiện.

Xác nhận một truyền thống liên tục

6. Khi ban bố những chỉ thị nhằm duyệt lại Nghi thức Thánh lễ, Công đồng Vaticanô II, ngoài những chỉ thị khác, cũng truyền phải phục hồi một số lễ nghi, "theo tiêu chuẩn xa xưa thời các thánh Giáo phụ"11. Như vậy là Công đồng đã dùng chính những lời mà thánh Piô V đã ghi trong Tông hiến Ngay từ đầu (Quo primum), khi công bố sách lễ của Công đồng Trentô năm 1570. Chính vì có sự trùng hợp về ngôn từ, nên ta có thể nhận thấy lý do tại sao hai Sách lễ Rôma, dầu cách nhau bốn thế kỷ, vẫn theo cùng một truyền thống như nhau. Nếu cân nhắc các yếu tố nội tại của truyền thống này, chúng ta cũng thấy Sách lễ mới bổ túc cho Sách lễ cũ cách khéo léo và tốt đẹp.

7. Vào thời buổi khó khăn, khi đức tin Công giáo liên quan tới bản chất hy tế của Thánh lễ, chức linh mục thừa tác, sự hiện diện thực sự và thường hằng của Ðức Kitô dưới hình bánh rượu đang gặp nguy cơ, thì mối bận tâm đầu tiên của thánh Piô V là lo bảo tồn truyền thống còn mới, đang bị tấn công một cách vô lối, bằng cách chỉ thay đổi rất ít trong lễ nghi thánh. Thật vậy, Sách lễ năm 1570 chỉ hơi khác Sách lễ in đầu tiên năm 1474, và Sách lễ này lại trung thành lặp lại Sách lễ thời Ðức Giáo Hoàng Innôcentiô III. Ngoài ra, các cảo bản Thư viện Vaticanô, mặc dầu đã đưa vào một số sửa chữa trong kiểu nói, nhưng đã không cho phép công việc nghiên cứu "các tác giả cổ và có uy tín" đi xa hơn là sưu tầm các sách chú giải về phụng vụ thời trung cổ.

8. Trái lại, ngày nay, "tiêu chuẩn xa xưa thời các Giáo phụ" được những người duyệt lại Sách lễ của thánh Piô V tuân theo, đã được nên phong phú nhờ vô số văn bản của các học giả. Vì chưng, sau khi Sách cử hành bí tích mệnh danh là Grêgôrianô được xuất bản lần đầu năm 1571, thì các Sách cử hành bí tích cổ của Phụng vụ Rôma và Ambrôsianô cũng được xuất bản nhiều lần và theo phương pháp phê bình. Cả những sách phụng vụ cổ của nghi lễ Tây Ban Nha và Galicăng, là những sách chứa đựng nhiều kinh nguyện có giá trị thiêng liêng không nhỏ, cho tới bấy giờ chưa được biết, cũng được đưa ra ánh sáng.

Cũng vậy, ngày nay, người ta được biết nhiều hơn về những truyền thống của các thế kỷ đầu, là những truyền thống đã có trước khi nghi lễ Ðông và Tây phương được hình thành, vì đã khám phá ra nhiều văn kiện về phụng vụ.

Ngoài ra, những nghiên cứu sâu xa về các Giáo phụ đã đào sâu nền thần học về mầu nhiệm Thánh Thể nhờ được soi sáng bới giáo lý của các Giáo phụ nổi danh thời Kitô giáo xa xưa, như thánh Irênê, Ambrôsiô, Syrilô thành Giêrusalem và Gioan Kim Khẩu.

9. Bởi vậy, "tiêu chuẩn xa xưa thời các thánh Giáo phụ" không chỉ đòi phải bảo tồn những gì cha ông kế cận chúng ta đã truyền lại, mà còn phải tìm hiểu và cân nhắc kỹ lưỡng hơn, tất cả các thời gian đã qua của Hội Thánh, và tất cả các hình thức, mà đức tin duy nhất của Hội Thánh đã được tuyên xưng trong các hình thức tôn thờ rất khác biệt của con người và của xã hội dân sự, vì đó là những hình thức đã được thực hành tại các miền của người Sêmít, người Hy Lạp, và người Latinh. Cái nhìn bao quát rộng rãi hơn này giúp ta nhận thấy rằng: Chúa Thánh Thần đã ban cho dân Chúa sự trung tín lạ lùng, trong việc bảo tồn kho tàng đức tin bất biến, mặc dầu có nhiều kinh nguyện và nghi lễ rất khác nhau.

Thích ứng với những điều kiện mới

10. Như thế, Sách lễ mới, trong khi làm chứng cho luật cầu nguyện của Hội Thánh Rôma và bảo vệ kho tàng đức tin do các Công đồng gần đây truyền lại, thì cũng đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong truyền thống phụng vụ.

Vì chưng, khi các Nghị phụ Công đồng Vaticanô II nhắc lại những xác định về tín lý của Công đồng Trentô, các ngài đã lên tiếng trong một thời đại khác xa với trước; nên trong vấn đề mục vụ, các ngài có thể đưa ra những đề nghị và những lời khuyên mà trước đó bốn thế kỷ, người ta không thể thấy trước được.

11. Công đồng Trentô đã nhận thấy việc cử hành Thánh lễ có lợi ích lớn lao cho việc dạy giáo lý, nhưng chưa thể thu thập được tất cả những hệ kết để ứng dụng vào cuộc sống. Thật vậy, có nhiều người đã xin Công đồng cho phép dùng tiếng bản xứ khi cử hành hy lễ Thánh Thể. Nhưng trước lời thỉnh cầu này, Công đồng đã xét tới hoàn cảnh lúc đó, mà nghĩ rằng: nhiệm vụ của Công đồng là nhấn mạnh một lần nữa đến giáo lý truyền thống của Hội Thánh, theo đó, hy lễ Thánh Thể, trước hết là hành động của chính Chúa Kitô, cho nên hiệu năng riêng của hành động này không bị ảnh hưởng do cung cách (modo) tham dự của các tín hữu. Bởi đó, Công đồng đã dùng những lời vừa mạnh mẽ vừa đắn đo mà quả quyết như sau: "Mặc dầu Thánh lễ có hàm chứa một nền giáo huấn phong phú cho cộng đồng tín hữu, nhưng các Nghị phụ nhận thấy là cử hành Thánh lễ khắp nơi bằng tiếng bản xứ thì không thuận lợi". Và Công đồng đã lên án kẻ nào chủ trương rằng: "Phải lên án nghi lễ Hội Thánh Rôma dạy đọc nhỏ tiếng phần Lễ Qui và lời truyền phép; hoặc: phải cử hành Thánh lễ bằng tiếng bản xứ mà thôi". Dầu vậy, một đàng Công đồng cấm dùng tiếng bản xứ trong Thánh lễ, một đàng lại truyền cho các mục tử phải dùng lời giáo huấn thích hợp để thay thế: "Ðể đoàn chiên Ðức Kitô khỏi phải đói khát... Công đồng truyền cho các mục tử và hết mọi người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn phải, hoặc tự mình, hoặc nhờ người khác, năng trình bày khi cử hành Thánh lễ một vài điều trong những điều đọc trong Thánh lễ, và trong số các mầu nhiệm khác, phải giải thích về mầu nhiệm thuộc hy lễ rất thánh này, nhất là trong các Chúa nhật và lễ trọng".

12. Công đồng Vaticanô II, đã được triệu tập để làm cho Hội Thánh thích nghi với các nhu cầu của nhiệm vụ tông đồ trong thời đại này. Công đồng này, cũng như Công đồng Trentô đã nghiên cứu thấu đáo tính chất giáo huấn và mục vụ của Phụng vụ thánh. Vì không một người Công giáo nào phủ nhận tính cách hợp pháp và hữu hiệu của nghi lễ thánh được cử hành bằng tiếng Latinh, nên Công đồng cũng có thể công nhận rằng: "Nhiều khi việc dùng tiếng bản xứ có thể rất hữu ích cho dân chúng", và đã cho phép dùng tiếng bản xứ. Quyết định trên đây đã được nồng nhiệt đón nhận khắp nơi, do đó kết quả là: dưới quyền lãnh đạo của các giám mục và của chính Tông Tòa, mọi cử hành phụng vụ có giáo dân tham dự đều được phép cử hành bằng tiếng bản xứ, để mầu nhiệm cử hành được am hiểu đầy đủ hơn.

13. Tuy nhiên, vì việc dùng tiếng bản xứ trong Phụng vụ thánh chỉ là một phương tiện, dù rất quan trọng để trình bày rõ ràng hơn giáo huấn về mầu nhiệm chứa đựng trong việc cử hành, nên Công đồng Vaticanô II còn nhắn nhủ phải thực thi một số chỉ thị của Công đồng Trentô, đã không được tuân giữ ở khắp mọi nơi, như phải giảng trong các ngày Chúa nhật và lễ trọng, và được phép xen ít lời nhắc bảo vào giữa các nghi lễ thánh.

Công đồng Vaticanô II còn mạnh mẽ khuyến dụ rằng: "Cách tham dự Thánh lễ hoàn hảo hơn là giáo dân nên rước Mình Thánh Chúa trong cùng một Thánh lễ sau khi linh mục đã rước lễ"19. Công đồng cũng thúc đẩy thực hiện một ước nguyện khác của các Nghị phụ Công đồng Trentô là, để tham dự mầu nhiệm Thánh Thể cách đầy đủ hơn, thì "trong mỗi Thánh lễ, các tín hữu không chỉ tham dự bằng tâm tình thiêng liêng, mà còn bằng việc lãnh bí tích Thánh Thể nữa".

14. Ðược thúc đẩy bởi cùng một tinh thần và nhiệt tâm mục vụ đó, Công đồng Vaticanô II đã có một lý do mới, để có thể cân nhắc quyết định của Công đồng Trentô về việc rước lễ dưới hai hình. Thật vậy, ngày nay, không còn ai nghi ngờ những nguyên tắc giáo lý về hiệu lực rất đầy đủ của việc rước lễ dưới một hình bánh, nên Công đồng đã đôi khi cho phép được rước lễ dưới hai hình, nghĩa là nhờ hình thức rõ ràng hơn của dấu chỉ bí tích, giáo dân được dành cho cơ hội đặc biệt để hiểu sâu hơn mầu nhiệm họ tham dự.

15. Theo tinh thần đó, trong khi vẫn trung thành với sứ vụ của mình là thầy dạy chân lý, Hội Thánh gìn giữ những điều "cũ" tức là kho tàng truyền thống cũng như chu toàn bổn phận xem xét và khôn ngoan sử dụng những điều "mới" (Mt 13,52).

Quả thế, một phần Sách lễ mới hướng các kinh nguyện của Hội Thánh về những nhu cầu của thời đại chúng ta cách rộng rãi hơn; thuộc loại này đặc biệt là các lễ có nghi thức riêng và các lễ "cho những nhu cầu khác nhau", trong đó, truyền thống và cái mới được kết hợp với nhau cách hài hòa. Bởi đó, trong khi vẫn duy trì nguyên vẹn nhiều kiểu nói, rút ra từ truyền thống rất xa xưa của Hội Thánh, như thấy được qua Sách lễ Rôma, từng được xuất bản nhiều lần, nhiều kiểu nói khác đã được thích nghi với các đòi hỏi và hoàn cảnh của thời nay. Ngược lại, có những kiểu nói khác, như các lời nguyện cầu cho Hội Thánh, cho giáo dân, cho việc thánh hóa lao động, cho cộng đoàn các dân tộc, cho một số nhu cầu riêng của thời đại chúng ta, thì hoàn toàn được sáng tác theo tư tưởng, và nhiều khi theo chính những kiểu nói trong các văn kiện gần đây của Công đồng.

Cũng vì ý thức tình trạng mới của thế giới ngày nay, nên khi sử dụng những bản văn cổ truyền, xem ra ta không làm tổn thương gì đến kho tàng khả kính, nếu có thay đổi một vài câu, để lời văn thích hợp hơn với ngôn ngữ thần học ngày nay, và cũng thực sự phù hợp với kỷ luật hiện hành của Hội Thánh. Do đó đã thay đổi một số câu liên quan đến việc đánh giá và sử dụng của cải trần gian, và một số câu trình bày hình thức sám hối bề ngoài, thuộc những thời đại khác của Hội Thánh.

Bằng cách đó những quy tắc phụng vụ của Công đồng Trentô đã được bổ túc và kiện toàn trong nhiều điểm nhờ những quy tắc của Công đồng Vaticanô II. Công đồng này đã đưa tới đích những cố gắng nhằm đem tín hữu tới gần phụng vụ hơn. Những cố gắng này đã diễn ra qua bốn thế kỷ nay, đặc biệt trong thời đại gần đây, nhất là nhờ việc nghiên cứu phụng vụ do thánh Piô X và các Ðấng Kế vị ngài cổ võ.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page