Quy Chế Tổng Quát

Sách Lễ Rôma

Canh tân theo nghị quyết của Công Ðồng Chung Vaticanô II

công bố theo lệnh Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI

hiệu đính dưới sự chỉ đạo của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Phiên dịch từ ấn bản mẫu thứ ba Nhà in Vaticanô - năm 2002

Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 18/06/2009


Chương IV

Những Hình Thức Khác Nhau

Ðể Cử Hành Thánh Lễ

 

112. Trong Giáo Hội địa phương, xét theo ý nghĩa, Thánh lễ do Ðức Giám mục chủ sự, có linh mục đoàn, các phó tế và các thừa tác viên giáo dân bao quanh91 cùng với sự tham dự cách linh động và đầy đủ của cộng đoàn dân Chúa, phải kể là đứng hàng đầu, vì đó là cách chính yếu diễn tả Hội Thánh.

Trong Thánh lễ do Giám mục chủ sự, hoặc chủ tọa mà không cử hành, thì phải tuân giữ những quy luật ghi trong sách Nghi lễ Giám mục.

113. Cũng phải coi trọng Thánh lễ cử hành cùng với một cộng đoàn nào đó, nhất là cộng đoàn giáo xứ, vì cộng đoàn tượng trưng cho Hội Thánh phổ quát, ở một thời gian và không gian nhất định, đặc biệt trong cử hành Thánh lễ cộng đoàn ngày Chúa nhật.

114. Trong các Thánh lễ do một số cộng đoàn cử hành, thì Thánh lễ chiếm địa vị đặc biệt là Thánh lễ tu viện, vì đó là thành phần của thần vụ hằng ngày, hoặc Thánh lễ quen gọi là Thánh lễ "cộng đoàn". Mặc dù các lễ này không có gì khác biệt theo hình thức cử hành, nhưng cũng rất nên cử hành với những ca khúc, và nhất là nên có sự tham dự đầy đủ của mọi thành viên trong cộng đoàn tu sĩ hoặc kinh sĩ. Vì thế, trong các Thánh lễ đó, mỗi thành viên sẽ thi hành phận vụ của mình theo chức vụ hoặc tác vụ đã lãnh nhận. Mọi linh mục khi không phải làm lễ riêng cho các tín hữu vì lý do mục vụ, nên đồng tế trong các Thánh lễ đó, mỗi khi có thể được. Vả lại, tất cả các linh mục thuộc cộng đoàn, mà vì lợi ích mục vụ của các tín hữu, có bổn phận phải làm lễ riêng, cũng có thể đồng tế trong Thánh lễ tu viện hay Thánh lễ cộng đoàn cùng ngày. Vì chưng, các linh mục tham dự Thánh lễ, nếu không có lý do chính đáng miễn trừ, thì nên thi hành nhiệm vụ chức thánh của mình như thường lệ, và do đó, mặc áo lễ tham dự với tư cách đồng tế. Nếu không đồng tế, thì mặc áo riêng của mỗi kinh sĩ đoàn khi cử hành phụng vụ hoặc áo các phép trên áo dòng.

 

I. Thánh Lễ Cùng Với Dân Chúng

115. Thánh lễ cùng với dân chúng được hiểu là Thánh lễ được cử hành khi có tín hữu tham dự. Trong mức có thể, nên hát và nên có một số thừa tác viên xứng hợp khi cử hành Thánh lễ này, đặc biệt các ngày Chúa nhật và lễ buộc; nhưng cũng có thể cử hành Thánh lễ mà không hát và chỉ có một thừa tác viên.

116. Trong bất cứ Thánh lễ nào, nếu có một phó tế hiện diện, người ấy phải thi hành nhiệm vụ của mình. Thông thường mỗi linh mục chủ tế nên có một thầy giúp lễ, một thầy đọc sách và một ca viên. Nghi thức trình bày dưới đây dự liệu cả trường hợp có số thừa tác viên đông hơn.

Những điều cần chuẩn bị

117. Bàn thờ phải phủ ít là một khăn màu trắng. Trên bàn thờ hoặc gần bàn thờ, phải đặt hai, hoặc bốn, hoặc sáu chân đèn, nhất là trong Thánh lễ Chúa nhật hoặc ngày lễ buộc; hoặc nếu là lễ Giám mục giáo phận cử hành, thì phải đặt bảy chân đèn, có thắp nến. Hơn thế, trên bàn thờ hay gần bàn thờ phải đặt thánh giá, có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh. Có thể mang theo chân nến và thánh giá có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh khi rước chủ tế vào hành lễ. Trên bàn thờ, có thể đặt sẵn một sách Tin Mừng khác với sách bài đọc, trừ khi sách Tin Mừng này được mang theo khi rước chủ tế vào hành lễ.

118. Cũng phải dọn sẵn:

a) Gần ghế của linh mục: sách lễ và, tùy nghi, tập sách hát;

b) Trên giảng đài: sách bài đọc;

c) Trên bàn phụ: chén lễ, khăn thánh, khăn lau chén, và tùy nghi, tấm đậy chén; đĩa thánh và các bình đựng bánh thánh, nếu cần; bánh lễ cho chủ tế, phó tế, các thừa tác viên và cộng đoàn rước lễ; bình nước và bình rượu, trừ khi tín hữu đưa lên tất cả các vật này lúc dâng lễ; bình đựng nước để làm phép nếu có rảy nước thánh; đĩa hứng khi cho tín hữu rước lễ, và những gì cần thiết để rửa tay.

Nên phủ chén thánh bằng một khăn theo màu của ngày lễ hay màu trắng.

119. Trong phòng mặc áo, sẽ tùy hình thức Thánh lễ cử hành mà dọn phẩm phục cho linh mục, phó tế và các thừa tác viên khác:

a) Cho linh mục: áo trắng dài, dây các phép và áo lễ;

b) Cho phó tế: áo trắng dài, dây các phép và áo phó tế; có thể bỏ áo phó tế nếu không có hoặc khi bậc lễ không long trọng mấy;

c) Cho các thừa tác viên khác: áo trắng dài hoặc những áo khác đã được chuẩn nhận.

Tất cả những ai sử dụng áo trắng dài, thì cũng dùng dây lưng và khăn vai, trừ khi kiểu áo không đòi hỏi.

Khi có rước vào nhà thờ, thì phải dọn sách Tin Mừng; trong các ngày Chúa nhật và ngày lễ, thì dọn thêm bình hương và tầu hương nếu sử dụng hương; thánh giá để đi rước, chân nến có thắp nến.

A. Thánh lễ không có phó tế

Những nghi thức đầu lễ

120. Khi cộng đoàn đã tụ họp, linh mục và các thừa tác viên mặc phẩm phục tiến tới bàn thờ theo thứ tự sau đây:

a) Người mang bình hương có bỏ hương sẵn, nếu có xông hương;

b) Các thừa tác viên cầm nến sáng, có thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác cầm thánh giá đi giữa họ;

c) Các thừa tác viên giúp lễ và các thừa tác viên khác;

d) Thừa tác viên đọc sách có thể mang sách Tin Mừng, chứ không phải sách Bài đọc, giơ cao lên một chút;

e) Linh mục sẽ cử hành Thánh lễ.

Nếu có dùng hương thì trước khi đi rước, linh mục bỏ hương vào bình và thinh lặng làm dấu thánh giá chúc lành cho hương.

121. Ðang khi đoàn rước tiến tới bàn thờ thì hát ca nhập lễ (số 47-48).

122. Khi tới bàn thờ, linh mục và các thừa tác viên cúi mình.

Thánh giá có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh đã cầm đi rước, có thể dựng bên cạnh bàn thờ để làm thánh giá tại bàn thờ hoặc cất đi và đặt vào nơi xứng đáng vì bàn thờ chỉ được có một thánh giá. Còn đèn thì đặt trên bàn thờ hoặc cạnh bàn thờ. Sách Tin Mừng, thì đặt trên bàn thờ.

123. Linh mục tiến lên hôn kính bàn thờ, rồi tùy nghi, xông hương thánh giá và đi quanh bàn thờ mà xông hương bàn thờ.

124. Sau đó, linh mục về chỗ ngồi. Dứt ca nhập lễ, mọi người đứng, linh mục và các tín hữu làm dấu thánh giá trên mình. Linh mục đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Cộng đoàn thưa: Amen. Rồi linh mục hướng về cộng đoàn, dang tay, dùng một trong các công thức đã soạn sẵn mà chào họ. Chính linh mục hay một thừa tác viên khác cũng có thể nói một vài lời rất vắn tắt dẫn các tín hữu vào Thánh lễ ngày hôm ấy.

125. Sau đó là hành động thống hối. Ðoạn hát hoặc đọc Lạy Chúa, xin thương xót, theo luật chữ đỏ (x. số 52).

126. Trong những cử hành qui định phải đọc, thì hát hoặc đọc Vinh danh Thiên Chúa (x. số 53).

127. Tiếp đó, linh mục mời tín hữu cầu nguyện, ngài chắp tay đọc: Chúng ta dâng lời cầu nguyện. Mọi người cùng với linh mục thinh lặng cầu nguyện giây lát, đoạn linh mục dang tay đọc lời nguyện nhập lễ; đọc xong, cộng đoàn tung hô: Amen.

Phụng vụ lời Chúa

128. Dứt lời nguyện nhập lễ, mọi người ngồi. Linh mục có thể nói mấy lời rất vắn tắt, dẫn tín hữu vào phụng vụ lời Chúa. Thầy đọc sách tiến tới giảng đài đã có sách Bài đọc đặt sẵn từ trước Thánh lễ, đọc bài thứ nhất, mọi người lắng nghe. Ðến cuối, thầy đọc sách xướng lời tung hô: Ðó là lời Chúa, mọi người đáp lại: Tạ ơn Chúa.

Bấy giờ, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát, để mọi người suy gẫm những lời đã nghe.

129. Ðoạn người đọc thánh vịnh hoặc chính thầy đọc sách xướng các câu thánh vịnh; cộng đoàn đáp theo thường lệ.

130. Sau đó, nếu có bài đọc thứ hai trước bài Tin Mừng, thì độc viên cũng đọc tại giảng đài như trên, mọi người ngồi nghe và đến cuối thì đáp lời tung hô, như đã nói trên (x. số 128). Rồi, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát.

131. Ðoạn mọi người đứng lên và hát Alleluia hoặc một ca khúc nào khác, tùy theo đòi hỏi của mùa phụng vụ (x. số 62-64).

132. Khi hát Alleluia, hoặc ca khúc nào khác, linh mục bỏ hương và chúc lành cho hương, nếu có xông hương. Rồi linh mục chắp tay, cúi mình trước bàn thờ, đọc thầm: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn...

133. Lúc ấy, linh mục lấy sách Tin Mừng, nếu sách đó đặt trên bàn thờ, cầm nâng cao sách lên một chút, tiến đến giảng đài, có các thừa tác viên giáo dân đi trước. Họ có thể cầm bình hương và nến.

Những người hiện diện quay về giảng đài, tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với Tin Mừng Ðức Kitô.

134. Tại giảng đài, linh mục mở sách rồi chắp tay đọc: Chúa ở cùng anh chị em. Cộng đoàn đáp: Và ở cùng cha. Linh mục đọc tiếp: Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô..., đưa ngón tay cái làm dấu trên sách và trên mình, nơi trán, miệng và ngực, mọi người khác cũng làm như vậy. Cộng đoàn tung hô: Lạy Chúa Kitô, vinh danh Chúa. Linh mục xông hương sách Tin Mừng, nếu có xông hương (x. số 277-278). Ðoạn linh mục công bố Tin Mừng, và đến cuối, xướng câu tung hô: Ðó là lời Chúa. Mọi người đáp: Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. Linh mục hôn sách, đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con.

135. Nếu không có thầy đọc sách, thì chính linh mục đứng tại giảng đài đọc các bài đọc và thánh vịnh. Nếu có xông hương, thì linh mục vẫn đứng tại giảng đài, bỏ hương và chúc lành cho hương, rồi cúi mình và đọc: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn...

136. Linh mục đứng giảng tại ghế hoặc tại chính giảng đài hoặc tùy nghi tại nơi nào khác thích hợp. Giảng xong, có thể giữ thinh lặng một lát.

137. Linh mục đọc hoặc hát kinh Tin kính chung với cộng đoàn (x. số 68). Mọi người đứng. Khi tới câu: Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần.., mọi người đều cúi mình; nhưng trong lễ Truyền tin và lễ Giáng sinh, thì mọi người bái gối.

138. Sau kinh Tin kính, linh mục đứng tại chỗ, chắp tay, nói mấy lời vắn tắt, mời gọi tín hữu đọc lời nguyện chung. Ðoạn, một ca viên, hay thầy đọc sách hay một ai khác, đứng tại giảng đài hay một chỗ thuận tiện khác, xướng những ý nguyện cho dân chúng, và dân chúng khẩn khoản đáp lại theo phần của mình. Sau hết, linh mục dang tay kết thúc bằng một lời nguyện.

Phụng vụ Thánh Thể

139. Sau lời nguyện chung, tất cả ngồi và bắt đầu hát ca tiến lễ (x. số 74).

Thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên giáo dân khác đem khăn thánh, khăn lau chén, chén thánh, tấm đậy chén và sách lễ lên bàn thờ.

140. Nên để cho các tín hữu biểu lộ sự tham dự bằng việc dâng bánh rượu dùng vào việc tế lễ, hoặc những phẩm vật khác dùng để đáp ứng các nhu cầu của nhà thờ và cứu trợ người nghèo. Linh mục nhận các lễ vật tín hữu dâng, với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác. Bánh và rượu dùng trong Thánh lễ, thì trao cho chủ tế, chủ tế đặt trên bàn thờ, còn các phẩm vật khác thì đặt nơi khác thích hợp (x. số 73).

141. Tại bàn thờ, linh mục đưa hai tay cầm đĩa thánh có bánh, nâng cao lên khỏi bàn thờ một chút và đọc thầm: Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất... Rồi đặt đĩa thánh có bánh trên khăn thánh.

142. Ðoạn linh mục đứng cạnh bàn thờ, thừa tác viên đưa các bình rượu nước, linh mục đổ rượu và một chút nước vào chén thánh, đọc thầm: Nhờ dấu chỉ nước hòa rượu này... rồi trả bình rượu cho thừa tác viên giúp lễ. Trở lại giữa bàn thờ, linh mục hai tay cầm chén, nâng cao một chút, đọc thầm: Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất... rồi đặt chén thánh xuống trên khăn thánh, và tùy nghi lấy tấm đậy đặt lên trên chén.

Nếu không hát ca tiến lễ hoặc không đánh đàn thì khi dâng bánh và rượu, linh mục nên đọc lớn tiếng công thức chúc tụng, và cộng đoàn tung hô đáp lại bằng câu: Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

143. Sau khi đặt chén thánh trên bàn thờ, linh mục cúi mình, đọc thầm: Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con...

144. Ðoạn, nếu có xông hương, linh mục bỏ hương vào bình, thinh lặng chúc lành rồi xông hương của lễ, thánh giá và bàn thờ. Thừa tác viên đứng bên cạnh bàn thờ xông hương cho linh mục, rồi cho cộng đoàn.

Nếu dùng lư hương, thì xuống đổ hương vào bình than cháy trong lư hương, sau đó chắp tay cúi mình một lần tỏ lòng tôn kính bàn thờ. Nếu dùng nhang, thì có thể bỏ qua vái nhang lần này. Tuy nhiên, nơi nào muốn cho một số đại diện lên vái nhang chung với chủ tế, thì cũng có thể vái nhang vào lúc này.

145. Sau kinh Lạy Chúa là Thiên Chúa,... hoặc sau khi xông hương, linh mục đứng bên cạnh bàn thờ, rửa tay, đọc thầm: Lạy Chúa, xin rửa con... đang khi thừa tác viên đổ nước.

146. Trở lại giữa bàn thờ, linh mục đứng hướng về cộng đoàn, dang tay, rồi chắp lại, mời gọi họ cầu nguyện và nói: Anh chị em hãy cầu nguyện... Sau khi cộng đoàn đứng dậy và thưa Xin Chúa nhận hy lễ..., rồi linh mục dang tay đọc lời nguyện tiến lễ. Cuối lời nguyện, cộng đoàn tung hô: Amen.

147. Ðoạn linh mục bắt đầu kinh nguyện Thánh Thể. Theo chữ đỏ (x. số 365), linh mục chọn một trong những kinh có trong Sách lễ Rôma hoặc đã được Tòa Thánh phê chuẩn. Theo bản chất, kinh nguyện Thánh Thể đòi một mình linh mục đọc, vì ngài có chức thánh. Còn cộng đoàn thì liên kết với linh mục trong đức tin và trong thinh lặng, rồi vào những lúc qui định trong suốt kinh nguyện này, xen vào những câu tung hô, những lời đối đáp, đó là những câu đáp trong phần đối thoại mở đầu kinh Tiền tụng, lời tung hô "Thánh! Thánh! Thánh!", lời tung hô sau truyền phép, và lời tung hô Amen sau vinh tụng ca kết thúc kinh nguyện Thánh Thể, và những lời tung hô khác đã được Hội đồng Giám mục phê chuẩn và Tòa Thánh công nhận.

Linh mục rất nên hát những phần có phổ nhạc trong kinh nguyện Thánh Thể.

148. Bắt đầu kinh nguyện Thánh Thể, linh mục dang tay hát hoặc đọc: Chúa ở cùng anh chị em. Cộng đoàn đáp: Và ở cùng cha. Khi đọc tiếp: Hãy nâng tâm hồn lên, ngài nâng hai tay lên. Cộng đoàn đáp: Chúng con đang hướng về Chúa; linh mục vẫn dang tay đọc tiếp: Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Cộng đoàn đáp: Thật là chính đáng. Linh mục tiếp tục dang tay đọc lời tiền tụng, và khi kết thúc, ngài chắp tay, cùng với mọi người hiện diện hát hoặc đọc rõ tiếng: Thánh! Thánh! Thánh! (x. số 79b).

149. Linh mục tiếp tục kinh nguyện Thánh Thể như chữ đỏ đã ghi trong mỗi kinh.

Nếu chủ tế là Giám mục, thì trong các kinh nguyện Thánh Thể, sau lời Cùng với Ðức Giáo Hoàng T..., thì thêm: và con là tôi tớ bất xứng. Nếu Giám mục cử hành Thánh lễ ngoài giáo phận của mình, thì sau lời: Cùng với Ðức Giáo Hoàng T..., thì thêm: và con là tôi tớ bất xứng của Chúa và anh em con là T..., giám mục giáo phận T... Giám mục giáo phận, hoặc vị có quyền tương đương phải được nêu tên trong công thức này: Cùng với tôi tớ Chúa là Ðức Giáo Hoàng T... và Ðức Giám mục (hoặc Ðức Ðại diện, Ðức Giám chức, Ðức Phủ doãn, Ðức Viện phụ, Cha Giám quản) T... chúng con.

Trong kinh nguyện Thánh Thể, được phép nêu tên các Giám mục phó và phụ tá (nhưng không nêu tên các Giám mục khác có thể đang hiện diện). Khi có nhiều vị phải được nêu tên, thì đọc dưới một công thức tổng quát: Ðức Giám mục T... chúng con và các Giám mục cộng tác với ngài.

Phải thích ứng những công thức trên trong mỗi kinh nguyện Thánh Thể, sao cho hợp với cấu trúc văn phạm.

150. Trước lúc truyền phép một chút, thừa tác viên có thể tùy nghi rung chuông để nhắc nhở tín hữu. Cũng rung chuông khi dâng Mình Thánh, và khi dâng Máu Thánh lên, tùy theo thói quen mỗi địa phương.

Nếu có xông hương, thì thừa tác viên sẽ xông hương lúc dâng Mình Thánh và dâng Máu Thánh sau khi truyền phép.

151. Sau khi truyền phép, linh mục đọc: Ðây là mầu nhiệm đức tin, và cộng đoàn tung hô bằng một trong những công thức đã được chỉ định.

Cuối kinh nguyện Thánh Thể, linh mục cầm đĩa có bánh thánh và chén thánh, rồi nâng cả hai lên và đọc lời vinh tụng ca một mình: Chính nhờ Người... Ðến cuối, cộng đoàn tung hô: Amen. Ðoạn linh mục đặt đĩa thánh và chén thánh trên khăn thánh.

152. Hết kinh nguyện Thánh Thể, linh mục chắp tay đọc lời nhắn nhủ trước kinh Lạy Cha, rồi dang tay đọc kinh Lạy Cha cùng với cộng đoàn.

153. Ðọc kinh Lạy Cha xong, một mình linh mục dang tay đọc: Lạy Chúa xin cứu chúng con.... Khi đọc xong, cộng đoàn tung hô: Vì vương quyền...

154. Rồi linh mục dang tay đọc rõ tiếng: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói.... Sau kinh này, linh mục dang tay rồi chắp lại, hướng về cộng đoàn chúc bình an: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em. Cộng đoàn thưa: Và ở cùng Cha. Ðoạn linh mục tùy nghi thêm: Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.

Linh mục có thể chúc bình an cho các thừa tác viên, tuy nhiên, bao giờ cũng phải ở lại trong cung thánh, kẻo làm xáo trộn việc cử hành. Khi có lý do chính đáng, nếu muốn, linh mục cũng có thể chúc bình an cho một số ít tín hữu. Mọi người khác tùy theo cách thức Hội đồng Giám mục quyết định, tỏ cho nhau dấu chỉ bình an, hiệp thông bác ái. Trong khi chúc bình an, có thể nói: Bình an của Chúa hằng ở cùng... Người kia đáp: Amen.

Tại Việt Nam, xin xem lại số 82.

155. Sau đó, linh mục cầm Mình Thánh bẻ ra trên đĩa thánh và bỏ một phần nhỏ vào chén thánh, đọc thầm Xin cho việc hòa Mình và Máu Ðức Giêsu.... Ðang khi đó, ca đoàn và cộng đoàn hát hay đọc kinh Lạy Chiên Thiên Chúa... (x. số 83).

156. Bấy giờ linh mục chắp tay đọc thầm kinh dọn mình rước lễ: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa... hoặc Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa....

157. Ðọc kinh đó xong, linh mục cúi mình, rồi cầm Mình Thánh, giơ cao một chút trên đĩa thánh hay trên chén thánh, hướng về cộng đoàn và nói: Ðây Chiên Thiên Chúa..., và cùng với cộng đoàn, đọc một lần câu Lạy Chúa, con chẳng đáng....

158. Rồi linh mục đọc thầm: Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con..., và kính cẩn rước Mình Thánh Chúa Kitô. Ðoạn ngài cầm chén thánh đọc thầm: Xin Máu Thánh Chúa Kitô gìn giữ con..., và kính cẩn rước Máu Thánh Chúa Kitô.

159. Khi linh mục rước lễ thì bắt đầu hát ca hiệp lễ (x. số 86).

160. Ðoạn linh mục cầm đĩa thánh hoặc bình thánh, tiến đến chỗ những người rước lễ, những người này sắp hàng tiến lên như thường lệ. Không được để các tín hữu tự tay mình cầm lấy bánh đã được truyền phép hoặc chén thánh, lại cũng không được để cho họ chuyền tay nhau. Các tín hữu quỳ gối hoặc đứng khi rước lễ, tùy theo Hội đồng Giám mục quy định. Khi rước lễ đứng, khuyên họ nên tỏ sự cung kính xứng hợp trước khi rước lễ theo cách thức Hội đồng Giám mục đã quy định.

Tại Việt Nam, các tín hữu đứng rước lễ, vì thế, nên cúi mình thờ lạy Chúa Kitô trước khi rước lễ. Tuy nhiên, để khỏi mất giờ, nên cúi mình khi người đi liền trước đang rước lễ.

161. Nếu chỉ cho rước lễ dưới hình bánh, thì linh mục cầm Bánh Thánh giơ cao lên một chút trước mặt từng người, và nói: Mình Thánh Chúa Kitô, người rước lễ thưa: Amen, và lãnh nhận Mình Thánh bằng miệng hoặc nơi nào cho phép, thì bằng tay tùy ý. Người rước lễ vừa nhận Bánh Thánh thì phải nuốt hết ngay.

Tại Việt Nam, được rước lễ trên tay.

Còn nếu rước lễ dưới hai hình, thì theo nghi thức quy định tại chỗ dành cho nghi thức này (số 284-287).

162. Khi cho rước lễ, các linh mục có mặt có thể giúp chủ tế. Nếu không có sẵn các linh mục mà số người rước lễ quá đông, thì linh mục có thể nhờ các thừa tác viên ngoại lệ giúp đỡ, tức là các thừa tác viên giúp lễ đã được thiết lập cách chính đáng, hoặc những người tín hữu có khả năng đã được đề cử cách hợp pháp để làm việc này. Khi cần thiết, linh mục có thể ủy nhiệm cho những tín hữu thích hợp để làm việc này từng lần.

Những thừa tác viên này không lên bàn thờ trước khi linh mục rước lễ và luôn phải nhận các bình đựng Mình Thánh từ tay linh mục chủ tế để trao cho các tín hữu.

163. Cho rước lễ xong, nếu còn lại rượu đã được truyền phép, thì linh mục uống hết ngay tại bàn thờ. Nếu còn bánh đã truyền phép, thì hoặc rước hết tại bàn thờ, hoặc đem đến nơi cất Mình Thánh.

Linh mục trở lại bàn thờ, gom những mụn bánh, nếu có; rồi đứng sang phía cạnh bàn thờ hay tới bàn phụ mà gạt các mụn bánh trên đĩa thánh và trong bình thánh vào chén thánh; đoạn vừa tráng chén, vừa đọc thầm: Lạy Chúa, miệng chúng con... và dùng khăn lau chén mà lau. Nếu tráng chén trên bàn thờ, thì sau đó thừa tác viên sẽ đem bình và chén xuống bàn phụ. Cũng có thể để chén bình chưa tráng trên một khăn thánh ở bàn thờ hay bàn phụ, nhất là khi có nhiều, rồi che đậy lại cách xứng hợp, để sau lễ, khi giải tán dân chúng rồi, sẽ tráng chén ngay.

164. Sau đó, linh mục có thể trở về ghế chủ tọa. Có thể giữ thinh lặng thánh một lát, hoặc có thể hát thánh vịnh hay một thánh ca ngợi khen hoặc một thánh thi (x. số 88).

165. Sau đó, linh mục đứng tại chỗ hay tại bàn thờ, hướng về cộng đoàn, chắp tay đọc: Chúng ta dâng lời cầu nguyện, rồi có thể giữ thinh lặng trong giây lát, trừ khi đã giữ thinh lặng ngay sau khi rước lễ. Sau đó linh mục dang tay đọc lời nguyện hiệp lễ. Cuối lời nguyện, cộng đoàn tung hô: Amen.

Nghi thức kết thúc

166. Ðọc lời nguyện hiệp lễ xong, nếu có điều gì cần loan báo cho cộng đoàn, thì loan báo vắn tắt.

167. Ðoạn linh mục dang tay chào cộng đoàn Chúa ở cùng anh chị em, cộng đoàn thưa: Và ở cùng Cha. Linh mục chắp tay lại, rồi đặt tay trái trên ngực và đưa tay mặt lên, nói tiếp: Xin Thiên Chúa toàn năng... và, đang khi làm dấu thánh giá trên cộng đoàn, thì đọc tiếp: là Cha và Con và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em. Mọi người thưa: Amen.

Trong một số ngày và một số trường hợp, theo chữ đỏ, lời chúc lành này sẽ trở nên phong phú hơn nhờ lời nguyện trên dân chúng hoặc một công thức trọng thể hơn.

Giám mục chúc lành cho cộng đoàn theo công thức thích hợp, đang khi làm dấu thánh giá ba lần trên cộng đoàn.

168. Ngay sau khi chúc lành, linh mục chắp tay nói tiếp: Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an. Mọi người thưa: Tạ ơn Chúa.

169. Linh mục hôn kính bàn thờ như thường lệ, rồi cùng với các thừa tác viên cúi mình chào kính bàn thờ, rồi ra về.

170. Nếu ngay sau Thánh lễ có cử hành nghi thức phụng vụ nào khác, thì bỏ nghi thức kết thúc, tức là bỏ lời chào, lời chúc lành và giải tán.

B. Thánh lễ có phó tế

171. Khi hiện diện trong cuộc cử hành, phó tế mặc phẩm phục thánh và thi hành phận vụ của mình. Thầy sẽ:

a) Giúp linh mục và đi bên cạnh ngài;

b) Tại bàn thờ, thầy sẽ phụ giúp trong những việc liên hệ đến chén thánh và sách lễ;

c) Thầy đọc Tin Mừng và, khi được chủ tế yêu cầu, thầy có thể giảng (x. số 66);

d) Thầy hướng dẫn cộng đoàn tín hữu bằng những lời dẫn thích hợp và xướng các ý nguyện lời nguyện chung;

e) Thầy giúp linh mục chủ tế trao Mình Thánh, tráng chén và thu dọn;

f) Nếu không có thừa tác viên nào khác, thì khi cần, chính thầy sẽ thi hành các phận vụ của họ.

Nghi thức đầu lễ

172. Thầy phó tế cầm sách Tin Mừng, giơ cao lên một chút, đi trước linh mục khi tiến ra bàn thờ; nếu không cầm sách, thì đi bên cạnh linh mục.

173. Khi tới bàn thờ, nếu mang sách Tin Mừng, thì thầy tiến lên bàn thờ mà không cúi chào. Rồi, sau khi đặt sách Tin Mừng lên bàn thờ, thầy cùng với linh mục hôn kính bàn thờ.

Nếu không mang sách Tin Mừng, thầy cùng với linh mục cúi mình trước bàn thờ như thường lệ, rồi cùng linh mục lên hôn kính bàn thờ.

Cuối cùng, nếu có xông hương, thầy sẽ giúp linh mục bỏ hương và xông hương thánh giá và bàn thờ.

174. Xông hương xong, thầy cùng với linh mục tới chỗ ngồi, tại đó thầy ngồi bên cạnh và giúp ngài khi cần.

Phụng vụ lời Chúa

175. Ðang khi hát Alleluia hay ca khúc nào khác, nếu có xông hương, thầy phó tế giúp linh mục bỏ hương, rồi cúi mình trước mặt linh mục, xin ngài chúc lành, đọc nhỏ tiếng: Xin cha chúc lành cho con. Linh mục chúc lành cho thầy: Xin Chúa ngự nơi tâm hồn và môi miệng Thầy, để Thầy xứng đáng và đủ tư cách công bố Tin Mừng của Chúa. Thầy phó tế làm dấu thánh giá trên mình và thưa: Amen. Sau khi cúi chào bàn thờ, thầy lấy sách Tin Mừng giơ sách lên cao một chút, tiến tới giảng đài, có người cầm bình hương đang tỏa khói cùng với những thừa tác viên cầm nến sáng đi trước. Tại đây, thầy chắp tay chào cộng đoàn và nói: Chúa ở cùng anh chị em. Rồi khi đọc: Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh..., thì lấy ngón tay cái làm dấu thánh giá trên sách, rồi trên trán, trên miệng và trên ngực mình. Thầy xông hương trên sách và công bố bài Tin Mừng. Ðọc xong, thầy xướng: Ðó là lời Chúa, mọi người đáp: Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. Ðoạn thầy hôn kính sách Tin Mừng, đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con. và trở lại bên cạnh linh mục.

Khi phó tế giúp Giám mục, thầy đem sách cho Giám mục hôn kính hoặc chính thầy hôn kính đang khi đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con. Trong những cử hành long trọng hơn, Giám mục có thể tùy nghi cầm sách Tin Mừng mà chúc lành cho cộng đoàn.

Sau hết, đặt sách Tin Mừng trên bàn phụ hoặc một nơi nào khác thích hợp và xứng đáng.

176. Nếu không có thầy đọc sách xứng hợp khác, thì chính thầy phó tế đọc các bài đọc khác.

177. Sau lời mở đầu của linh mục, phó tế sẽ xướng các ý nguyện của lời nguyện chung ở giảng đài như thường lệ.

Phụng vụ Thánh Thể

178. Dứt lời nguyện chung, đang khi linh mục ở tại ghế, phó tế dọn bàn thờ, có thừa tác viên giúp lễ phụ, nhưng chính phó tế phải sửa soạn các bình, chén thánh. Thầy cũng giúp linh mục tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến. Rồi thầy trao đĩa thánh có bánh lễ cho linh mục. Thầy vừa rót rượu và chút nước vào chén thánh, vừa đọc thầm: Nhờ dấu chỉ nước hòa rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Ðấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con. Rồi trao chén thánh cho linh mục. Có thể sửa soạn chén thánh tại bàn phụ. Nếu có xông hương, thầy giúp linh mục xông hương lễ vật và bàn thờ, sau đó, thầy hoặc một thừa tác viên khác, sẽ xông hương linh mục và cộng đoàn.

179. Trong phần kinh nguyện Thánh Thể, thầy phó tế đứng gần linh mục, phía sau một chút, để khi cần, giúp ngài trong những gì liên quan đến chén thánh hoặc sách lễ.

Sau đó, thầy phó tế quỳ gối như thường lệ từ lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần (Epiclesis) cho đến khi nâng chén thánh. Nếu có nhiều phó tế, thì một vị có thể bỏ hương vào bình và xông hương đang khi linh mục dâng Mình và Máu Thánh.

180. Ðến vinh tụng ca kết thúc kinh nguyện Thánh Thể, thầy phó tế đứng cạnh linh mục, nâng chén thánh lên, đang khi linh mục nâng đĩa có Mình Thánh, cho đến khi cộng đoàn đã tung hô: Amen.

181. Sau khi linh mục đọc kinh cầu bình an: Lạy Chúa Giêsu Kitô... và câu: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em, và cộng đoàn đáp Và ở cùng Cha, thì thầy phó tế tùy nghi mời gọi chúc bình an, thầy chắp tay, hướng về cộng đoàn và nói: Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau. Chính thầy nhận lời chúc bình an của linh mục, và có thể trao bình an cho những thừa tác viên đứng gần mình hơn cả.

182. Sau khi linh mục rước lễ, thầy rước lễ dưới hai hình từ tay linh mục, rồi giúp linh mục cho cộng đoàn rước lễ. Nếu cho rước lễ dưới hai hình, chính thầy cầm chén cho rước Máu Thánh; và, sau khi cho rước lễ xong, nếu còn Máu Thánh, thì thầy đến tại bàn thờ, cung kính rước hết; nếu cần, thì các phó tế và các linh mục khác uống giúp.

183. Cho rước lễ xong, cùng với linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và sắp xếp như thường lệ; đang khi đó, linh mục trở về ghế chủ tọa. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn thánh ở bàn phụ, che đậy cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán dân chúng.

Nghi thức kết thúc

184. Khi linh mục đã đọc lời nguyện hiệp lễ, nếu cần loan báo điều gì cho cộng đoàn, thầy phó tế sẽ vắn tắt loan báo, trừ khi chính linh mục muốn loan báo.

185. Nếu dùng công thức chúc lành long trọng hoặc lời nguyện trên dân chúng, thầy phó tế nói: Anh chị em hãy cúi mình nhận phép lành. Sau khi linh mục chúc lành, thầy phó tế giải tán cộng đoàn, thầy chắp tay hướng về cộng đoàn mà nói: Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.

186. Sau đó, cùng với linh mục, thầy hôn kính bàn thờ, và sau khi cúi mình chào bàn thờ, thầy ra về cùng một cách như lúc tiến ra bàn thờ.

C. Phận vụ thừa tác viên giúp lễ

187. Các phần việc mà thừa tác viên giúp lễ có thể làm thuộc nhiều loại khác nhau; lại có nhiều phần việc phải làm cùng một lúc. Vậy nên phân phối các phần việc đó cho nhiều người. Nhưng nếu chỉ có một thầy giúp lễ có mặt, thầy sẽ thi hành những gì quan trọng hơn; còn các việc khác, thì trao cho những thừa tác viên khác.

Nghi thức đầu lễ

188. Khi tiến ra bàn thờ, thầy giúp lễ có thể mang thánh giá đi giữa hai thừa tác viên cầm nến cháy. Khi tới bàn thờ, thầy dựng thánh giá bên cạnh bàn thờ để thành thánh giá tại bàn thờ; nếu không, thì đặt thánh giá tại một nơi xứng đáng, rồi về chỗ của mình trong cung thánh.

189. Trong suốt buổi cử hành, nhiệm vụ của thầy giúp lễ là đến gần linh mục, hoặc phó tế, mỗi khi cần, để đưa sách và giúp các ngài trong những gì cần thiết. Do đó, theo mức có thể, nên dành cho thầy một chỗ thuận tiện, để thầy dễ dàng lo phần việc của mình nơi ghế ngồi hay tại bàn thờ.

Phụng vụ Thánh Thể

190. Nếu không có phó tế, thì sau lời nguyện chung, và khi linh mục còn ở tại ghế, thầy giúp lễ đặt khăn thánh, khăn lau chén, chén thánh và sách lễ lên bàn thờ. Rồi, nếu cần, thầy giúp linh mục tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến và, tùy nghi, đưa bánh rượu tới bàn thờ và trao cho linh mục. Nếu có xông hương, chính thầy đưa bình hương cho linh mục và giúp ngài xông hương lễ vật, thánh giá và bàn thờ. Rồi thầy xông hương cho linh mục và cộng đoàn.

191. Thầy giúp lễ đã được chính thức thiết lập để làm thừa tác viên ngoại lệ, có thể giúp linh mục cho cộng đoàn rước lễ, khi cần. Nếu cho rước lễ dưới hai hình, mà không có phó tế, thì chính thầy giúp lễ cho rước Máu Thánh hoặc cầm chén thánh nếu cho rước lễ theo cách chấm.

192. Cho rước lễ xong, thầy giúp lễ đã được chính thức thiết lập giúp linh mục hoặc phó tế lau chén và sắp xếp các bình thánh. Khi không có phó tế, thầy giúp lễ mang các bình thánh tới bàn phụ, tráng và lau các bình thánh tại đó như thường lệ.

193. Khi Thánh lễ kết thúc, thầy giúp lễ và các thừa tác viên khác cùng với phó tế và linh mục làm đoàn rước trở về phòng thánh theo cùng một cách và thứ tự như khi đi ra bàn thờ.

D. Phận vụ thừa tác viên đọc sách

Nghi thức đầu lễ

194. Khi tiến ra bàn thờ, nếu không có thầy Phó tế, thầy đọc sách có thể mang sách Tin Mừng, nâng cao lên một chút, nhưng phải mặc phẩm phục đã được chuẩn nhận: trong trường hợp ấy, thầy đi trước linh mục; nếu không, thầy đi với các thừa tác viên khác.

195. Khi đến bàn thờ, thầy cùng với các người khác cúi mình. Nếu thầy mang sách Tin Mừng, thì bước lên đặt sách Tin Mừng trên bàn thờ. Ðoạn thầy cùng với các thừa tác viên khác về chỗ của mình trong cung thánh.

Phụng vụ lời Chúa

196. Thầy đứng tại giảng đài đọc các bài đọc trước bài Tin Mừng. Khi không có người hát thánh vịnh, thầy cũng có thể đọc thánh vịnh và đáp ca sau bài đọc thứ nhất.

197. Khi không có phó tế, sau lời dẫn nhập của linh mục, thầy đọc sách có thể xướng các ý nguyện lời nguyện chung.

198. Nếu không hát ca nhập lễ hoặc ca hiệp lễ, và tín hữu không đọc các ca nhập lễ hoặc ca hiệp lễ ghi trong sách lễ, thì thầy đọc sách đọc các ca nhập lễ hoặc ca hiệp lễ vào lúc thích hợp (x. số 48, 87).

 

II. Thánh Lễ Ðồng Tế

Những điều cần biết trước

199. Việc đồng tế biểu lộ cách thích đáng sự hợp nhất của chức linh mục, của hy lễ và của toàn thể dân Chúa. Chính nghi thức buộc phải có đồng tế:

a) trong nghi lễ tấn phong Giám mục và truyền chức linh mục;

b) trong lễ chúc phong Ðan viện phụ;

c) và trong lễ làm phép Dầu.

Khuyên nên đồng tế trong các trường hợp sau đây, trừ phi lợi ích của tín hữu đòi hỏi cách khác:

a) Trong Thánh lễ Tiệc Ly chiều thứ Năm tuần Thánh;

b) Trong Thánh lễ của các Công đồng, các cuộc họp của các Giám mục và trong các Hội đồng;

c) Trong Thánh lễ tu viện và Thánh lễ chính tại các nhà thờ và nhà nguyện;

d) Trong Thánh lễ nhân dịp bất cứ cuộc hội họp nào của các linh mục triều hay dòng.

Tuy nhiên, mỗi linh mục vẫn được phép cử hành Thánh lễ riêng, nhưng không được trùng vào lúc trong nhà thờ hoặc nhà nguyện đó có Thánh lễ đồng tế. Tuy nhiên, lễ Tiệc Ly ngày Thứ Năm tuần Thánh và lễ Canh thức Vượt Qua, thì không được phép cử hành lễ riêng.

200. Các linh mục qua đường cũng được chấp nhận vào đồng tế, miễn là biết rõ tình trạng của linh mục đó.

201. Nơi nào có nhiều linh mục, có thể tổ chức dâng Thánh lễ đồng tế nhiều lần trong cùng một ngày, khi nhu cầu hoặc lợi ích mục vụ khuyên làm thế; tuy nhiên, phải làm vào những thời gian kế tiếp nhau hoặc tại những nơi thánh khác nhau.

202. Chiếu theo luật, Giám mục có quyền ấn định về kỷ luật đồng tế cho giáo phận của mình trong mọi nhà thờ và nhà nguyện.

203. Phải hết sức quý trọng lễ đồng tế mà các linh mục trong mỗi giáo phận cử hành với Giám mục của mình, trong lễ Ðại triều, nhất là trong các cuộc lễ trọng hơn của năm phụng vụ, trong lễ tấn phong Giám mục mới trong giáo phận, hoặc Giám mục phó hoặc phụ tá của ngài, trong lễ làm phép dầu, trong lễ Tiệc Ly ban chiều, trong lễ mừng thánh sáng lập của giáo phận địa phương hoặc thánh Bổn mạng giáo phận, trong các lễ kỷ niệm của Giám mục, sau hết trong dịp họp Hội đồng hoặc viếng thăm mục vụ.

Vì lý do đó, nên khuyến khích đồng tế mỗi khi các linh mục tụ họp với Ðức Giám mục của mình, như trong dịp tĩnh tâm hay tập họp khác. Trong những dịp ấy, dấu hiệu hiệp nhất của chức linh mục, và của Hội Thánh, đặc trưng của mọi lễ đồng tế, được biểu lộ một cách rõ ràng.

204. Khi có lý do đặc biệt hoặc vì ý nghĩa của nghi thức hoặc vì ngày lễ, thì được phép cử hành Thánh lễ hay đồng tế một ngày nhiều lần trong những dịp sau đây:

a) Ngày thứ Năm Tuần Thánh, ai đã cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ làm phép dầu, còn được cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ Tiệc Ly ban chiều;

b) Ai đã cử hành Thánh lễ hoặc đồng tế trong Thánh lễ Vọng Phục sinh, còn được cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ ngày Phục sinh;

c) Trong lễ Giáng sinh, các linh mục có thể cử hành hoặc đồng tế ba lễ, miễn là các lễ này phải được cử hành vào thời gian đã định;

d) Ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, miễn là các lễ cử hành vào những thời gian khác nhau, và tuân giữ những điều qui định về ý chỉ của lễ thứ hai và thứ ba;

e) Trong Hội đồng và trong dịp kinh lý mục vụ có Giám mục hoặc vị đại diện của ngài hoặc nhân dịp các linh mục hội họp, ai đã đồng tế trong dịp đó, vẫn có thể cử hành Thánh lễ lần nữa vì lợi ích của các tín hữu. Ðiều này cũng có giá trị đối với các cộng đoàn tu sĩ, miễn là phải tuân thủ đúng những gì phải giữ.

205. Phải tổ chức Thánh lễ đồng tế, bất cứ dưới hình thức nào, theo những qui luật chung phải giữ (x. số 112-198), và sau đây là những gì phải giữ hay phải thay đổi:

206. Một khi Thánh lễ đã bắt đầu, thì không ai được nhập đoàn đồng tế hoặc được nhận vào đồng tế nữa.

207. Trong cung thánh, phải dọn:

a) Ghế và sách cho các vị đồng tế;

b) Ở bàn phụ: chén lễ đủ lớn hoặc nhiều chén lễ.

208. Nếu trong Thánh lễ đồng tế mà không có phó tế, thì một vài vị đồng tế thi hành những phần việc của phó tế.

Nếu không có cả các thừa tác viên khác, thì có thể giao những phần việc của họ cho những tín hữu thích hợp. Nếu không có những tín hữu thích hợp, thì một vài vị đồng tế thi hành những phần việc này.

209. Tại phòng mặc áo hay ở một nơi nào thuận tiện, các vị đồng tế sẽ mặc lễ phục như thường mặc khi làm lễ một mình. Nhưng khi có lý do chính đáng, ví dụ như có nhiều người đồng tế quá mà không có đủ áo lễ, thì, trừ vị chủ tế, các vị đồng tế khác có thể bỏ áo lễ, mà chỉ dùng áo trắng dài và dây các phép.

Nghi thức đầu lễ

210. Khi mọi sự đã xếp đặt chu đáo, thì làm thành đoàn rước đi qua nhà thờ tiến lên bàn thờ như thường lệ. Các linh mục đồng tế đi trước vị chủ tế chính.

211. Khi tới bàn thờ, các vị đồng tế và chủ tế chính cúi mình và lên hôn kính bàn thờ rồi về chỗ của mình. Còn chủ tế chính tùy nghi xông hương thánh giá và bàn thờ, rồi cũng về ghế của mình.

Phụng vụ lời Chúa

212. Trong phần phụng vụ lời Chúa, các vị đồng tế ở tại chỗ, ngồi hoặc đứng như vị chủ tế chính.

Bắt đầu hát Alleluia, mọi người đứng, trừ Giám mục, ngài thinh lặng bỏ hương, chúc lành cho phó tế, và nếu không có phó tế, thì chúc lành cho vị đồng tế sẽ công bố Tin Mừng. Trong lễ đồng tế do linh mục chủ sự, thì vị đồng tế công bố Tin Mừng, khi không có phó tế, không xin mà cũng không nhận chúc lành.

213. Thông thường thì chủ tế chính hoặc một trong các vị đồng tế giảng.

Phụng vụ Thánh Thể

214. Việc chuẩn bị của lễ (x. số 139-145) do vị chủ tế chính thực hiện, các vị đồng tế khác ở lại tại chỗ.

215. Sau khi chủ tế chính đọc lời nguyện tiến lễ, các vị đồng tế lên đứng chung quanh bàn thờ, nhưng phải sắp xếp thế nào để không gây cản trở khi cử hành các nghi thức và để cộng đoàn thấy rõ nghi lễ, và cũng không cản trở phó tế, khi thầy phải lui tới thi hành phận vụ nơi bàn thờ.

Khi có các linh mục đồng tế, thì phó tế vẫn phải thi hành phận vụ riêng của mình nơi bàn thờ, khi cần giúp trong những gì liên quan đến chén thánh và sách lễ. Nhưng trong mức có thể được, phó tế đứng sau các vị đồng tế một chút, đang khi các ngài đứng bao quanh vị chủ tế chính.

Cách thức đọc kinh nguyện Thánh Thể

216. Một mình vị chủ tế chính đọc hoặc hát kinh Tiền tụng; nhưng hết mọi linh mục cùng với cộng đoàn hát hay đọc lời tung hô: Thánh! Thánh! Thánh!.

217. Sau lời tung hô Thánh! Thánh! Thánh!, các vị đồng tế tiếp tục kinh nguyện Thánh Thể theo cách được mô tả dưới đây. Một mình vị chủ tế chính làm các cử chỉ, trừ khi ghi chú cách khác.

218. Các phần mà tất cả các vị đồng tế cùng đọc, thì các vị đồng tế phải đọc nhỏ tiếng để tiếng của chủ tế chính được nghe rõ. Như vậy, cộng đoàn sẽ dễ nghe hơn.

Thật là đáng khen nếu hát những phần tất cả các đồng tế cùng đọc và sách lễ có ghi dấu nhạc.

Kinh nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Qui Rôma

219. Trong kinh nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Qui Rôma, một mình chủ tế dang tay đọc phần: Lạy Cha rất nhân từ...

220. Lạy Chúa, xin nhớ đến... và Hiệp thông cùng Hội Thánh... có thể để một hoặc hai vị đồng tế luân phiên đọc. Ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

221. Vì vậy, lạy Chúa: lại một mình vị chủ tế chính dang tay đọc.

222. Từ Lạy Chúa, xin thương ban phúc... cho đến Lạy Chúa toàn năng...: chủ tế chính làm các cử chỉ, còn tất cả các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) Lạy Chúa, xin thương ban phúc...: giơ hai tay về phía lễ vật;

b) Hôm trước ngày chịu khổ hình... và Cùng một thể thức ấy... chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay mặt hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh Thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) Vì vậy, lạy Chúa... và Xin Chúa ghé mắt nhân từ... dang tay;

e) Lạy Chúa toàn năng... cúi mình và chắp hai tay lại, cho tới lời là khi rước Mình và Máu Thánh Con Chúa... thì đứng thẳng lên và làm dấu thánh giá trên mình khi đọc câu chúng con được tràn đầy ơn phúc bởi trời.

223. Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến... và Xin cũng cho chúng con là tôi tớ tội lỗi, có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

224. Ðến câu Xin cũng cho chúng con là tôi tớ tội lỗi các vị đồng tế cùng đấm ngực.

225. Lạy Chúa, nhờ Người, Chúa hằng sáng tạo... mình chủ tế chính đọc.

Kinh nguyện Thánh Thể II

226. Trong kinh nguyện Thánh Thể II, một mình chủ tế chính dang tay đọc: Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng Thánh...

227. Từ Vì thế, chúng con nài xin Chúa... cho đến Chúng con cúi xin Chúa..., các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) Vì thế, chúng con nài xin Chúa: giơ hai tay về phía lễ vật;

b) Khi tự nguyện nộp mình Cùng một thể thức ấy: chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay mặt hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) Vì vậy, lạy Chúa Chúng con tha thiết nài xin Chúa: dang tay.

228. Cầu cho người còn sống: Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa, và cầu cho người đã ly trần: Xin Chúa cũng nhớ đến: có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

Kinh nguyện Thánh Thể III

229. Trong kinh nguyện Thánh Thể III, một mình chủ tế chính dang tay đọc: Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng Thánh...

230. Từ Vì vậy, lạy Chúa, chúng con tha thiết nài xin Chúa... cho đến Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn...: các vị đồng tế cùng đọc chung, theo cách thức sau đây:

a) Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin: giơ hai tay hướng về lễ vật;

b) Trong đêm bị trao nộp... và Cùng một thể thức ấy...: chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay mặt hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình.

d) Vì vậy, lạy Chúa... và Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn...: dang tay.

231. Lời chuyển cầu: Nguyện xin Chúa Thánh Thần Lạy Chúa, chúng con nguyện xin Của lễ hòa giải này: có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.

Kinh nguyện Thánh Thể IV

232. Trong kinh nguyện Thánh Thể IV, một mình chủ tế chính dang tay đọc Lạy Cha chí Thánh... cho đến và hoàn tất công việc thánh hóa.

233. Từ Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho đến Lạy Chúa, xin đoái nhìn hiến lễ...: các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:

a) Vì vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho Chúa Thánh Thần: giơ hai tay hướng về lễ vật;

b) Vậy, lạy Cha chí Thánh và Cùng một thể thức ấy... chắp tay;

c) Khi đọc lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay mặt hướng về bánh và chén; khi nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;

d) Vì vậy, lạy Chúa, giờ đây Lạy Chúa, xin đoái nhìn dang tay.

234. Lời chuyển cầu: Vậy, giờ đây, lạy Chúa, xin nhớ đến mọi người có thể để một hai vị đồng tế đọc và ngài dang tay đọc lớn tiếng kinh này.

235. Còn về các kinh nguyện Thánh Thể khác đã được Tòa Thánh phê chuẩn, thì hãy giữ những quy luật đã ấn định cho từng kinh.

236. Lời kết thúc kinh nguyện Thánh Thể chỉ do vị chủ tế chính và các vị đồng tế đọc mà thôi, tín hữu không được đọc.

Nghi thức hiệp lễ

237. Tiếp đó, chủ tế chính chắp tay đọc lời nhắn nhủ trước kinh Lạy Cha, rồi dang tay đọc kinh Lạy Cha cùng với các vị đồng tế, các vị này cũng dang tay và cùng đọc với cộng đoàn.

238. Lạy Chúa, xin cứu chúng con... một mình chủ tế dang tay đọc. Các vị đồng tế cùng với cộng đoàn đọc hoặc hát lời tung hô kết thúc: Vì vương quyền, uy lực và vinh quang...

239. Sau khi phó tế hoặc, nếu không có phó tế, một vị đồng tế kêu mời: Anh chị em hãy chúc bình an..., mọi người chúc bình an cho nhau. Những ai ở gần chủ tế chính hơn, thì nhận bình an của ngài trước phó tế.

240. Ðang khi đọc Lạy Chiên Thiên Chúa, các phó tế hoặc một vài vị đồng tế có thể giúp chủ tế chính bẻ bánh cho các vị đồng tế và cộng đoàn rước lễ.

241. Sau khi hòa Mình Thánh vào Máu Thánh, một mình chủ tế chính đọc thầm kinh Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống hoặc kinh Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa...

242. Ðọc xong lời nguyện trước rước lễ, chủ tế chính cúi mình, rồi lui lại một chút. Các vị đồng tế, từng vị một, vị nọ sau vị kia, cúi mình, kính cẩn nhận lấy Mình Thánh Chúa từ bàn thờ; tay mặt cầm Mình Thánh, tay trái đỡ phía dưới, rồi về chỗ đứng. Các vị đồng tế có thể đứng tại chỗ, chủ tế chính hoặc một hay nhiều vị đồng tế cầm đĩa thánh đi đến trước từng vị, để mỗi vị nhận Mình Thánh từ đĩa thánh; hoặc chuyền đĩa thánh từ vị này tới vị khác cho đến vị cuối cùng.

243. Ðoạn chủ tế chính cầm Mình Thánh truyền phép trong chính Thánh lễ ấy, nâng cao lên một chút trên đĩa thánh hay trên chén thánh, hướng về cộng đoàn mà đọc: Ðây Chiên Thiên Chúa... rồi cùng với các vị đồng tế và cộng đoàn tiếp tục: Lạy Chúa, con chẳng đáng...

244. Tiếp đó, chủ tế chính quay về bàn thờ, đọc thầm: Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời, rồi cung kính rước Mình Thánh Chúa. Các vị đồng tế cũng rước lễ như vậy. Sau đó, phó tế nhận Mình và Máu Thánh Chúa từ tay chủ tế chính.

245. Có thể rước Máu Thánh hoặc trực tiếp từ chén thánh, hoặc bằng cách chấm, hoặc bằng ống hút, hoặc bằng thìa.

246. Nếu rước trực tiếp từ chén thánh, có thể sử dụng một trong các cách sau đây:

a) Chủ tế chính cầm lấy chén thánh và đọc thầm: Xin Máu Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời rồi rước một chút Máu Thánh; sau đó, trao chén thánh cho phó tế hay một vị đồng tế. Ðoạn ngài cho tín hữu rước lễ (x. số 160-162). Còn các vị đồng tế, từng người một, hoặc từng hai người, nếu có hai chén thánh, tiến tới bàn thờ, cúi mình, rước Máu Thánh, lau miệng chén thánh, rồi trở về ghế của mình.

b) Chủ tế chính đứng giữa bàn thờ như thường lệ mà rước Máu Thánh. Các vị đồng tế có thể đứng tại chỗ mà rước Máu Thánh, do phó tế hoặc một vị đồng tế đem chén thánh đến cho uống; hoặc các vị ấy tiếp nhận chén thánh, rồi chuyền cho nhau. Chén thánh luôn phải được lau, hoặc do vị uống hay vị đưa cho uống. Sau khi hiệp lễ, ai nấy trở về ghế mình.

247. Phần Máu Thánh còn lại, phó tế cung kính rước hết tại bàn thờ; nếu cần thì nhờ vài vị đồng tế uống giúp, rồi đem chén xuống bàn phụ; tại đó, chính thầy hoặc thầy giúp lễ đã được thiết lập tráng, lau và dọn dẹp chén như thường lệ (x. số 183).

248. Việc hiệp lễ của các vị đồng tế cũng có thể sắp xếp như sau: Mỗi vị tới bàn thờ rước Mình Thánh Chúa, rồi rước luôn Máu Thánh nữa. Trong trường hợp này, chủ tế chính rước Mình và Máu Thánh như thường lệ (x. số 158), nhưng phải giữ nghi thức rước Máu Thánh theo thể thức đã lựa chọn cho từng trường hợp; và các vị đồng tế khác cũng phải rước Máu Thánh theo thể thức đó.

Khi chủ tế hiệp lễ xong, đặt chén thánh trên một khăn thánh bên bàn thờ, các vị đồng tế, từng người một, đến giữa bàn thờ, cúi mình, rước Mình Thánh Chúa, rồi sang phía bên cạnh bàn thờ rước Máu Thánh, theo nghi thức rước Máu Thánh đã được lựa chọn, như nói trên.

Việc hiệp lễ của phó tế và việc tráng chén cũng làm theo cách thức nói trên.

249. Nếu các vị đồng tế hiệp lễ theo cách chấm, thì chủ tế chính rước Mình và Máu Thánh như thường lệ, nhưng phải lưu ý để lại trong chén đủ Máu Thánh cho các vị đồng tế rước. Sau đó, thầy phó tế hay một vị đồng tế sẽ tùy nghi đặt Chén thánh và đĩa đựng các phần Bánh thánh, hoặc tại giữa bàn thờ, hoặc trên một khăn thánh khác ở một bên bàn thờ. Các vị đồng tế, từng người một, tiến đến bàn thờ, cúi mình, cầm một phần Bánh thánh, chấm một chút trong chén thánh và lấy đĩa hứng dưới miệng mà hiệp lễ, rồi trở về chỗ mình, như lúc đầu lễ.

Phó tế cũng rước lễ theo cách chấm. Thầy thưa: Amen khi một vị đồng tế nói: Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Nhưng phó tế uống tại bàn thờ tất cả Máu Thánh còn lại. Nếu cần thì nhờ vài vị đồng tế uống, rồi đem chén thánh xuống bàn phụ, tại đó chính thầy hay thầy giúp lễ đã được thiết lập tráng, lau và sắp xếp như thừơng lệ.

Nghi thức kết thúc

250. Chủ tế chính làm mọi việc khác cho tới cuối lễ như thường lệ (x. số 166-169), còn các vị đồng tế cứ ở tại chỗ.

251. Trước khi rời khỏi bàn thờ, các vị đồng tế cúi mình trước bàn thờ. Còn chủ tế chính thì kính cẩn hôn bàn thờ như thường lệ.

 

III. Thánh Lễ Chỉ Có Một Thừa Tác Viên Tham Dự

252. Trong Thánh lễ mà chỉ có một thừa tác viên tham dự và đối đáp, thì giữ nghi thức có cộng đoàn tham dự (x. số 120-169), thừa tác viên tùy nghi đọc phần của cộng đoàn.

253. Nếu thừa tác viên là phó tế, thì chính thầy thi hành những phận vụ riêng của mình (x. số 171-186), đồng thời chu toàn các phận vụ khác của cộng đoàn.

254. Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, thì không được cử hành Thánh lễ mà không có người giúp, hoặc ít là một tín hữu nào đó. Trong trường hợp này, thì bỏ các lời chào, lời bảo và phép lành cuối lễ.

255. Chén lễ được dọn trước hoặc trên bàn phụ bên cạnh bàn thờ, hoặc trên bàn thờ phía bên tay mặt; còn sách lễ thì đặt phía bên tay trái.

Nghi thức đầu lễ

256. Linh mục tiến đến bàn thờ, cúi mình chào rồi hôn kính bàn thờ, đoạn về ghế. Nếu muốn, ngài có thể đứng tại bàn thờ. Trong trường hợp này, phải dọn sách lễ tại đó. Sau đó thừa tác viên hoặc linh mục đọc ca nhập lễ.

257. Ðoạn linh mục cùng với thừa tác viên làm dấu thánh giá trên mình và đọc: Nhân danh Cha... Rồi linh mục quay lại chào thừa tác viên theo một trong những công thức được chỉ định.

258. Sau đó là hành động thống hối, và tùy theo chữ đỏ, đọc Lạy Chúa, xin thương xót và thánh thi Vinh danh.

259. Rồi ngài chắp tay đọc: Chúng ta dâng lời cầu nguyện, ngừng lại giây lát, rồi dang tay đọc lời nguyện nhập lễ. Cuối lời nguyện, thừa tác viên tung hô: Amen.

Phụng vụ lời Chúa

260. Nếu có thể được, thì nên đọc các bài đọc tại giảng đài hay tại giá sách.

261. Xong lời nguyện nhập lễ, thừa tác viên đọc bài đọc thứ nhất với thánh vịnh, rồi bài đọc thứ hai, khi phải đọc, sau đó, Alleluia và câu xướng kèm theo hoặc bài ca khác.

262. Ðoạn linh mục cúi mình đọc kinh Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy... rồi đọc bài Tin Mừng. Kết bài Tin Mừng, ngài nói: Ðó là lời Chúa, thừa tác viên thưa: Lạy Chúa Kitô... Rồi linh mục kính cẩn hôn sách và đọc thầm: Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc...

263. Sau đó, tùy theo luật chữ đỏ, linh mục cùng với thừa tác viên đọc kinh Tin kính.

264. Tiếp đó, cũng có thể đọc cả trong Thánh lễ này lời nguyện chung: linh mục xướng các ý nguyện, thừa tác viên thưa.

Phụng vụ Thánh Thể

265. Trong phần phụng vụ Thánh Thể làm mọi sự như trong Thánh lễ có cộng đoàn tham dự, trừ các điều sau đây:

266. Sau lời tung hô cuối kinh kế tiếp kinh Lạy Cha, linh mục đọc kinh Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói... rồi thêm: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh em, thừa tác viên thưa: Và ở cùng Cha. Linh mục tùy nghi chúc bình an cho thừa tác viên.

267. Ðoạn, đang khi ngài đọc Lạy Chiên Thiên Chúa... cùng với thừa tác viên, linh mục bẻ bánh thánh trên đĩa. Xong kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, ngài vừa hòa trộn Mình và Máu Thánh vừa đọc thầm kinh Xin cho việc hòa Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô...

268. Sau nghi thức hòa trộn, linh mục đọc thầm: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống... hoặc Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước Mình...; đoạn cúi mình, cầm Mình Thánh. Nếu thừa tác viên có rước lễ, ngài quay về phía thừa tác viên, giơ Mình Thánh lên cao một chút trên đĩa thánh, và nói: Ðây Chiên Thiên Chúa... rồi cùng với thừa tác viên đọc một lần: Lạy Chúa, con chẳng đáng... Ðoạn quay vào bàn thờ, ngài rước Mình Thánh Chúa. Nếu thừa tác viên không rước lễ, linh mục cúi mình, cầm Mình Thánh quay mặt về bàn thờ đọc thầm một lần: Lạy Chúa, con chẳng đáng... và Xin Mình Thánh Chúa Kitô..., rồi rước Mình Thánh Chúa. Ðoạn ngài cầm lấy chén và đọc thầm: Xin Máu Thánh Chúa Kitô... rồi rước Máu Thánh.

269. Linh mục đọc ca hiệp lễ trước khi cho thừa tác viên rước lễ.

270. Linh mục tráng chén ở cạnh bàn thờ hoặc tại bàn phụ. Nếu tráng chén tại bàn thờ, thì có thể trao cho thừa tác viên đem xuống bàn phụ, hoặc cứ để bên cạnh bàn thờ.

271. Tráng chén xong, linh mục phải giữ thinh lặng một chút, rồi đọc lời nguyện hiệp lễ.

Nghi thức kết thúc

272. Nghi thức kết thúc cũng làm như trong Thánh lễ có cộng đoàn tham dự, nhưng bỏ câu Lễ xong... Linh mục hôn kính bàn thờ như thường lệ và cúi mình cùng với thừa tác viên, đoạn rời bàn thờ.

 

IV. Một Ít Quy Luật Chung Cho Tất Cả Các Hình Thức Thánh Lễ

Việc tôn kính bàn thờ và sách Tin Mừng

273. Theo thói quen lưu truyền, việc tôn kính bàn thờ và sách Tin Mừng được thể hiện bằng cách hôn kính. Nhưng, ở nơi nào dấu tôn kính này không phù hợp với tập tục hay đặc tính địa phương, thì ở đó, Hội đồng Giám mục có thể chỉ định dấu khác thay thế với sự chấp thuận của Tòa Thánh.

Tại Việt Nam vẫn giữ thói quen hôn kính bàn thờ và Sách Tin Mừng theo tập tục chung của toàn thể Giáo Hội.

Bái gối và cúi mình

274. Bái gối là bái gối bên phải sát đất, biểu lộ sự thờ lạy, vì thế, nó được dành để tôn kính phép Thánh Thể và Thánh giá kể từ khi nghi thức tôn thờ trọng thể trong phụng vụ ngày thứ Sáu Tuần Thánh cho đến lúc khởi đầu Canh thức Vượt Qua.

Tại Việt Nam, Hội Ðồng Giám mục đã qui định thay thế bái gối bằng cúi mình.

Trong Thánh lễ, có ba lần chủ tế cúi mình thay bái gối, tức là: sau khi dâng Mình Thánh, sau khi dâng Máu Thánh và trước khi rước lễ. Những điều riêng biệt phải giữ trong Thánh lễ đồng tế được ghi ở phần nói về lễ đồng tế (x. số 210-251).

Nếu nhà tạm có Mình Thánh Chúa đặt trong cung thánh, thì linh mục, phó tế và các thừa tác viên cúi mình khi đến bàn thờ hoặc khi rời bàn thờ, nhưng không cúi mình trước nhà tạm đang khi cử hành Thánh lễ.

Ngược lại, mọi người cúi mình khi đi qua trước Mình Thánh Chúa, trừ ra khi đang đi kiệu.

Những thừa tác viên cầm thánh giá nến cao (đèn hầu) đi rước, thì cúi đầu thay vì cúi mình.

275. Việc cúi đầu, cúi mình nói lên sự tôn kính đối với chính các nhân vật hoặc các biểu tượng của các nhân vật ấy.

Có hai cách cúi: cúi đầu và cúi mình.

a) Cúi đầu: mỗi khi đọc kinh Ba Ngôi Thiên Chúa một trật, khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Ðức Maria đồng trinh và tên vị thánh được kính trong lễ hôm ấy.

b) Cúi mình hay cúi sâu: khi chào kính bàn thờ, khi đọc các kinh Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy..., và kinh Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận..., khi đọc câu: Bởi phép Chúa Thánh Thần..., trong kinh Tin kính, câu: Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa... trong Lễ Qui Rôma. Phó tế cũng cúi mình khi xin chúc lành trước khi đi đọc bài Tin Mừng. Ngoài ra, linh mục cũng hơi cúi mình khi đọc lời truyền phép.

Việc xông hương

276. Việc xông hương bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện, theo ý nghĩa trong Sách Thánh (x. Tv 140,2; Kh 8,3).

Có thể tùy nghi dùng hương trong bất cứ hình thức Thánh lễ nào:

a) Khi đi rước ra bàn thờ;

b) Ðầu lễ, xông hương thánh giá và bàn thờ;

c) Khi rước sách Tin Mừng và trước khi công bố bài Tin Mừng;

d) Sau khi đặt bánh và chén trên bàn thờ, xông hương lễ vật, thánh giá và bàn thờ, rồi cũng xông hương linh mục và cộng đoàn;

e) Khi nâng Bánh thánh và Chén thánh sau truyền phép.

277. Linh mục bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu thánh giá.

Trước và sau khi xông hương, cúi mình chào người hoặc vật được xông hương, trừ bàn thờ và lễ vật dùng cho Thánh lễ.

Xông hương ba lần: trước Thánh Thể, gỗ Thánh giá, các ảnh Chúa được trưng bày cho người ta cung kính, thánh giá của bàn thờ, sách Tin Mừng, nến Phục sinh, linh mục và cộng đoàn.

Xông hương hai lần: trước xương và ảnh các Thánh được trưng bày cho người ta tôn kính, và chỉ làm lúc đầu lễ khi xông hương bàn thờ.

Xông hương bàn thờ từng nhịp một theo cách thức sau đây:

a) Nếu bàn thờ cách biệt vách tường, linh mục vừa đi chung quanh bàn thờ vừa xông hương;

b) Nếu bàn thờ không cách biệt vách tường, linh mục vừa đi qua vừa xông hương phía tay mặt bàn thờ, rồi vừa đi qua vừa xông hương phía tay trái.

c) Nếu thánh giá đặt phía trên bàn thờ hay tại bàn thờ, thì xông hương thánh giá trước khi xông bàn thờ; nếu không thì xông hương khi linh mục đi ngang qua trước thánh giá.

Linh mục xông hương ba lần trên lễ vật trước khi xông thánh giá và bàn thờ, hoặc dùng bình hương vẽ hình thánh giá trên lễ vật.

Tại Việt Nam, được phép vái nhang hay đổ hương vào lư hương thay cho xông hương. Nếu vái nhang, thông thường chỉ vái nhang lúc đầu lễ trước bàn thờ. Chủ tế cầm nhang, giơ cao lên để dâng rồi cúi mình ba lần để tỏ lòng tôn kính, sau đó cắm nhang vào bát nhang. Nếu trong phần dâng lễ, khi muốn cho một số đại diện cộng đoàn lên vái nhang cùng với chủ tế, thì cũng có thể vái nhang lần nữa vào lúc này. Trong trường hợp vái nhang chung với một số người đại diện, thì nên vái nhang ngay sau khi nhận của lễ để những người dâng của lễ khỏi phải đứng chờ trên cung thánh.

Nếu đổ hương vào bình than cháy trong lư hương, thì sau khi đổ hương sẽ chắp tay cúi mình một lần để tỏ lòng tôn kính. Có thể đổ hương lúc đầu lễ, sau khi dâng bánh và rượu và trước khi truyền phép Mình Máu Thánh. Không đổ hương trước khi đi đọc Tin Mừng, vì lần xông hương này chủ ý để tôn kính sách Tin Mừng, vì thế phải làm trước Sách Tin Mừng, chứ không làm trước bàn thờ. Chủ tế không bỏ bàn thờ xuống đổ hương trước khi truyền phép Mình Máu Thánh, nhưng để cho thừa tác viên làm việc này.

Việc tráng chén

278. Mỗi khi có mụn Bánh thánh dính vào tay, nhất là sau khi bẻ bánh hay cho cộng đoàn rước lễ, linh mục phải lau các ngón tay trên đĩa hoặc rửa nếu cần. Cũng phải thu lượm các mụn Bánh thánh nếu rớt ra ngoài đĩa thánh.

279. Nên hết sức liệu để tráng, lau các bình thánh tại bàn phụ, sau khi rước lễ hoặc sau Thánh lễ, hoặc do chính linh mục, hoặc phó tế hay thừa tác viên giúp lễ đã được thiết lập. Tráng chén bằng rượu và nước, hoặc bằng nước thôi, rồi chính vị đó uống nước tráng ấy. Ðĩa thánh thường được lau bằng khăn lau chén thánh.

Cần lưu ý là nếu Máu Thánh còn dư sau khi cho rước lễ phải được rước hết ngay tại bàn thờ.

280. Nếu Bánh thánh hoặc một mụn Bánh thánh rớt xuống đất, thì phải kính cẩn nhặt lên, nếu có chút Máu Thánh rớt xuống chỗ nào, thì phải lấy nước mà lau chỗ đó, rồi đổ nước ấy vào giếng thánh.

Việc hiệp lễ dưới hai hình

281. Xét về phương diện dấu chỉ, việc rước lễ dưới hai hình là hình thức đầy đủ hơn. Quả thật, dưới hình thức này, dấu chỉ của bữa tiệc Thánh Thể được sáng tỏ hơn. Ý Thiên Chúa muốn thiết lập Giao Ước mới và vĩnh cửu trong Máu Thánh Chúa cũng được biểu lộ rõ ràng hơn. Ðồng thời, mối tương quan giữa bữa tiệc Thánh Thể và bữa tiệc cánh chung trong nước Chúa Cha được diễn tả minh bạch hơn.

282. Các vị chủ chăn phải liệu cách nào thích hợp nhất để nhắc nhở những người rước lễ cũng như những người dự lễ, nhớ lại giáo lý công giáo về hình thức rước lễ, theo ý Công đồng Trentô. Trước hết, phải nhắc cho các Kitô hữu nhớ rằng theo đức tin công giáo, dù rước lễ dưới một hình, họ cũng lãnh nhận trọn vẹn Chúa Kitô và bí tích thực sự. Bởi đó, về hiệu quả, người rước lễ dưới một hình cũng chẳng thiệt mất ơn nào cần thiết cho sự cứu độ.

Cũng phải dạy cho họ biết trong việc phân phát các bí tích, tuy vẫn phải giữ nguyên vẹn những gì thuộc bản chất của bí tích, Hội Thánh có quyền ấn định hoặc thay đổi những gì xét ra thuận tiện hơn cho việc tôn kính các bí tích, hay cho lợi ích của người lãnh nhận, tùy theo biến chuyển của sự vật, thời đại và nơi chốn. Ðồng thời, cũng phải khuyên bảo họ nên tham dự cách nhiệt tình hơn vào nghi thức thánh, qua đó dấu chỉ của tiệc Thánh Thể được biểu lộ cách đầy đủ hơn.

283. Ngoại trừ những trường hợp được nói đến trong các sách nghi thức, còn được rước lễ dưới hai hình:

a) Các linh mục không có thể cử hành Thánh lễ hay đồng tế;

b) Thầy phó tế và những người thi hành một phận vụ trong Thánh lễ;

c) Các thành viên của các cộng đoàn trong thánh lễ tu viện hoặc trong thánh lễ gọi là "thánh lễ cộng đoàn", các chủng sinh, mọi người đang tĩnh tâm hoặc tham dự hội nghị về thiêng liêng và mục vụ.

Giám mục giáo phận có thể ấn định những quy luật về rước lễ dưới hai hình cho giáo phận mình, mà ngay cả các nhà thờ của các dòng tu và các nhóm nhỏ cũng phải tuân giữ. Giám mục giáo phận cũng có quyền cho phép rước lễ dưới hai hình mỗi khi linh mục chủ tế thấy thích hợp, miễn là tín hữu được hướng dẫn kỹ và không có nguy cơ xúc phạm đến Thánh Thể, hoặc nghi thức thành khó khăn hơn vì số người tham dự quá đông hay vì lý do nào khác.

Còn cách thức cho các tín hữu rước lễ dưới hai hình và việc mở rộng năng quyền, thì các Hội đồng Giám mục có thể ra các quy luật với sự phê chuẩn của Tòa Thánh.

Hội Ðồng Giám mục Việt Nam không có qui định gì riêng về vấn đề này.

284. Khi cho rước lễ dưới hai hình, thì:

a) Người cầm chén thánh, thông thường là phó tế, nếu không có, thì một linh mục, hay một thầy giúp lễ đã được thiết lập, hoặc một thừa tác viên ngoại lệ cho rước lễ, hoặc khi cần, một tín hữu, được trao nhiệm vụ tại chỗ.

b) Nếu còn dư Máu Thánh, thì phải được rước hết tại bàn thờ, do linh mục hoặc phó tế, hoặc do thầy giúp lễ đã thiết lập, là người đã cầm chén thánh, rồi tráng, lau và sắp xếp bình thánh theo thường lệ.

Còn các tín hữu chỉ muốn rước dưới một hình bánh mà thôi, thì cứ cho họ theo hình thức đó.

285. Ðể cho rước lễ dưới hai hình, phải chuẩn bị:

a) Nếu cho uống trực tiếp từ chén thánh, thì hoặc dọn một chén thánh đủ lớn, hoặc phải có nhiều chén thánh. Tuy nhiên, bao giờ cũng phải cẩn thận dự trù đừng để Máu Thánh dư quá mà phải uống hết sau khi rước lễ.

b) Nếu cho rước lễ dưới hai hình theo cách chấm, thì phải liệu sao cho Bánh thánh đừng quá mỏng hay quá nhỏ, nhưng hơi dày hơn thường một chút để khi đã chấm một phần vào Máu Thánh, còn có thể cho rước lễ dễ dàng.

286. Nếu cho rước Máu Thánh bằng cách uống từ chén thánh, người rước lễ bước qua đứng trước mặt thừa tác viên cầm chén thánh. Thừa tác viên nói: Máu Thánh Chúa Kitô; người rước lễ thưa: Amen. Thừa tác viên trao chén thánh, người rước lễ tự tay cầm chén thánh đưa lên miệng, người rước lễ uống một chút từ chén thánh, rồi trao lại cho thừa tác viên và về chỗ; thừa tác viên lấy khăn lau chén mà lau miệng chén thánh.

287. Nếu rước Máu Thánh bằng cách chấm, người rước lễ cầm đĩa hứng dưới miệng, tiến tới trước mặt linh mục đang cầm chén thánh và thừa tác viên cầm bình đựng Mình Thánh đứng bên cạnh. Linh mục lấy Bánh thánh, nhúng một phần vào chén thánh, giơ lên và nói: Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, người rước lễ đáp: Amen, rồi rước lễ bằng miệng từ tay linh mục, và về chỗ.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page