M

 

Ma-Ri-A

(= Marie)

Do hoàn toàn chấp nhận công trình của Thiên Chúa nơi mình và nơi Người Con, Ðức Maria là khuôn mẫu trọn hảo về việc chúng ta tham dự vào phụng vụ. Người đã bước vào vinh quang kể từ khi được đưa lên trời và các cử hành của chúng ta nối kết chúng ta với Người, vì phụng vụ ở dưới đất đã tham dự vào phụng vụ trên trời (xc. Phụng vụ).

Trong một năm phụng vụ, có các lễ kính Ðức Mẹ như sau:

- 08/12 : Ðức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, lễ trọng.

- 01/01 : Ðức Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa, lễ trọng.

- 11/02 : Ðức Mẹ Lộ Ðức, lễ nhớ tự do.

- 25/03 : Ðức Mẹ được Truyền Tin, lễ trọng.

- 31/05 : Ðức Mẹ thăm viếng, lễ kính.

- Thứ Bảy, tuần thứ ba sau lễ Hiện Xuống : Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ, lễ nhớ tự do.

- 16/07 : Ðức Mẹ núi Carmelo, lễ nhớ tự do.

- 05/08 : Cung Hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà Cả ở Rôma, lễ nhớ tự do.

- 15/08 : Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, lễ trọng.

- 22/08 : Ðức Trinh Nữ Maria Nữ Vương, lễ nhớ.

- 08/09 : Sinh Nhật Ðức Mẹ, lễ kính.

- 15/09 : Ðức Mẹ Sầu Bi, lễ nhớ.

- 07/10 : Ðức Mẹ Mân Côi, lễ nhớ.

- 21/11 : Ðức Mẹ Dâng Mình Trong Ðền Thờ, lễ nhớ.

Theo truyền thống, ngày thứ Bảy được dâng kính Ðức Mẹ; khi ngày này không phải là lễ trọng, lễ kính hoặc lễ nhớ bắt buộc thì có thể cử hành lễ nhớ về Ðức Mẹ (xc. Tôn kính).

 

Ma-Rô-Nít (Nghi Thức)

(= Maronite)

xc. Các Nhóm Phụng Vụ

 

Màn Che Bàn Thờ

(= Cibonium)

Trong tiếng La tinh, từ cibonium có cùng nguyên ngữ với tiếng bình thánh (ciboire). Trong các vương cung thánh đường cổ, bàn thờ được che phủ bằng một tấm màn đồ sộ. Tại vương cung thánh đường thánh Phêrô ở Rôma và vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoại thành, tấm màn che là để tôn kính ngôi mộ của hai vị Tông Ðồ diễm phúc, đặt bên dưới bàn thờ, là nơi người ta gọi là nơi tuyên xưng, tức là nơi tử đạo, nơi các ngài tuyên xưng đức tin.

 

Màn Che Phía Trước Bàn Thờ

(= Antependium)

Ðây là một tấm màn hay một tấm thảm quí treo trước bàn thờ thường xuyên hoặc vào các dịp lễ. Ðây là một thói quen cổ xưa (ít là từ thế kỷ VII). Ðối với một số bàn thờ tạm thời, khăn che phía trước bàn thờ không chỉ có tính cách trang trí mà còn là yếu tố cần thiết: đó là một tấm vải thô quí giá trải trên một giàn bằng gỗ.

 

Màu Sắc

(= Couleurs)

Phụng vụ là việc tôn thờ hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa của mọi thụ tạo, vì thế, sử dụng màu sắc trong các cuộc lễ là thành phần trọn vẹn của việc phục vụ Thiên Chúa. Việc lựa chọn và thay đổi màu sắc tùy thuộc rất nhiều vào thời đại và địa phương. Ngày nay vẫn như vậy.

Ở Tây Phương, các màu trong phụng vụ là: trắng, đỏ, xanh, tím, đen và hồng, như được kể trong Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (số 308). Qui chế này cũng dành cho các hội đồng giám mục chuẩn y các phong tục địa phương hay thích nghi những Qui Chế Tổng Quát. Ðôi khi, một số địa phương sử dụng màu vàng trong các lễ trọng, và màu xanh cho Ðức Trinh Nữ Maria.

Trong các cuộc cử hành trọng thể, cũng có thể trang hoàng những màu sắc đẹp đẽ, dù nó không phải là màu của ngày hôm đó.

 

Mặt Nguyệt

(= Lunule / Lunette)

Là một cái gọng hình tròn, có nắp, bằng kim loại vàng hoặc bạc, có hai mặt bằng thủy tinh, trong đó đặt Mình Thánh để trưng bày trong mặt nhật. Mặt nguyệt có Mình Thánh được lưu giữ tại nhà tạm, trong một cái hộp.

 

Mặt Nhật

(= Ostensoire)

Tiếng La tinh ostensor có nghĩa là người chỉ cho thấy; bởi động từ ostendere (chỉ, trỏ). Mặt nhật dùng đựng mặt nguyệt có Mình Thánh để trưng bày cho tín hữu thờ kính. Mặt nhật gồm có một chân đế và phía bên trên được trang trí bằng vàng hay bạc, ở giữa đựng Mình Thánh. Thường thường, kiểu trang trí này diễn tả các tia sáng mặt trời.

 

Mầu Nhiệm Và Các Mầu Nhiệm

(= Mystère)

Tiếng Hy Lạp musterion có nghĩa là phương tiện và đối tượng của sự khai tâm. Hạn từ Hy Lạp nguyên thủy chỉ các nghi thức ít nhiều bí mật và nhờ đó người ta được dẫn tới một tôn giáo, và đi vào tương quan với thần linh. Khi các tôn giáo thần bí Ðông Phương dần dần mang dấu vết văn hóa Hy Lạp, thì hạn từ này nhằm diễn tả đối tượng của một nhận thức đòi phải được khai tâm. Ðó là vấn đề tri thức hóa việc khai tâm, chủ yếu là thực hành các nghi thức; nói cách khác, các huyền thoại đã thay chỗ cho các nghi thức.

Ý niệm của Kinh Thánh về "Mầu Nhiệm" dường như độc lập với ý niệm của Hy Lạp mà chúng ta vừa xác định. "Mầu nhiệm" là bí mật trong ý định cứu độ của Thiên Chúa (xc. Ðn 2,18.19.27-30), được cưu mang bởi sự khôn ngoan của Thiên Chúa từ đời đời (Lc 2,1.7; Rm 16,25) diễn ra trong lịch sử cứu độ và thực hiện cách chính yếu trong hy tế của Ðức Kitô. "Mầu nhiệm Vượt Qua" tập trung toàn bộ "mầu nhiệm". Các Tông Ðồ đã lãnh nhận sứ vụ bày tỏ trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Kitô; đặc biệt đối với vấn đề này thánh Phaolô đã ý thức đón nhận được một ân sủng riêng, người viết cho tín hữu Êphêsô: "Nếu quả thật anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Ðức Kitô" (52,2.3 và cả chương; xc. 1,9; Cl 1,26-27).

Tiếp theo ông Philon thành Alexandrie (khoảng năm 13 trước Chúa Giáng Sinh và năm 54 sau Chúa Giáng Sinh), các giáo phụ đã đem quan niệm Hy Lạp về mầu nhiệm - đối tượng tri thức có được do sự khai tâm - đến gần với quan niệm của thánh Phaolô về "Mầu Nhiệm": thánh nhân tỏ bày toàn bộ kế hoạch cứu độ cho các tín hữu, như Kinh Thánh đã mạc khải.

Khoảng cuối thế kỷ thứ IV, các giáo phụ đem thuật ngữ học nguyên thủy về Mầu Nhiệm nơi dân ngoại, áp dụng vào các nghi thức bí tích của Hội Thánh: các tín hữu được tháp nhập vào "mầu nhiệm" nhờ việc cử hành các Mầu Nhiệm. Nên lưu ý rằng tiếng La tinh sacramentum được dịch từ tiếng Hy Lạp musterion. Giáo lý dự tòng cũng góp phần vào việc chấp nhận toàn bộ từ ngữ này và đã được sử dụng rộng rãi trong các sách bí tích và trong toàn bộ ngôn ngữ phụng vụ. Ðiển hình là lời nguyện hiệp lễ của Chúa Nhật 25 thường niên:

"Lạy Chúa, Ngài luôn luôn trợ giúp những kẻ Ngài đã nuôi dưỡng bằng các bí tích của Ngài, để trong các mầu nhiệm này và qua tất cả đời sống của họ, họ có thể thâu lượm được các hoa trái của ơn cứu độ".

Như vậy, các "mầu nhiệm" thuộc bí tích là những tác động của Thiên Chúa và con người đảm nhận lấy toàn bộ cuộc sống chúng ta trong kế hoạch yêu thương đã được Chúa Cha cưu mang từ đời đời, được thực hiện một lần cho mãi mãi trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô và diễn ra trong không gian và thời gian nhờ hành động của Chúa Thánh Thần.

Các "mầu nhiệm" phụng vụ luôn luôn cử hành mầu nhiệm Vượt Qua duy nhất và hiện thực hóa mầu nhiệm này bằng nhiều cách thức khác nhau (xc. Hy tế, Bí tích, Phụ tích). Người ta đã tranh luận dài dòng vấn đề thần học về dạng thức hiện diện của mầu nhiệm Vượt Qua trong các "mầu nhiệm", hay là sự "hiện diện mầu nhiệm". Nếu trước hết người ta nhận thấy trong phụng vụ, hành động của Thiên Chúa gồm tóm trong đời sống dân Giáo Ước, thì vấn đề đã sáng tỏ nhiều rồi: người ta không còn tự hỏi các hành vi của con người làm sao lại có thể "chứa đựng" điều linh thánh, vì đó chính là hành động của Thiên Chúa, Ðấng kêu gọi và hoàn tất những tác động của con người được thực hành trong phụng vụ. Thật vậy, chính trong phụng vụ, một cách chính thức và chủ yếu, để cho Chúa Cha và nhờ Thánh Thần hứa ban, Ðức Kitô đã thâu tóm Hội Thánh này để ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (xc. 1,9-14) (xc. Lịch sử cứu độ; Giao ước; Phụng vụ).

 

Mê-Si-a

(= Messie)

(xc. Ki-Tô)

 

Mình Máu Thánh Chúa (Lễ)

(= Fête - Dieu)

Là lễ trọng mừng kính bí tích Thánh Thể - Mình Máu Chúa Kitô. Lễ này được cử hành vào thứ Năm hay Chúa Nhật tiếp sau lễ trọng mừng Chúa Ba Ngôi.

 

(= Crécelle)

Theo gốc tiếng La tinh crépitacillum là một loại phách tạo nên một âm thanh khô khan và lặp đi lặp lại (do động từ crépitare: tạo nên một loạt tiếng động khô khan). Trong thực tế, mõ là một dấu hiệu kêu vang, gây ra những tiếng động ngắn ngủi, mõ được sử dụng thay chuông từ thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh đến đêm vọng Phục Sinh.

 

Mô Thức

(= Forme)

Trong ngôn ngữ thần học bí tích, mô thức là một trong hai yếu tố chính làm nên một bí tích: công thức mang lại cho dấu chỉ khả giác một ý nghĩa nhất định. Chẳng hạn, bí tích Thánh Tẩy là việc "dìm xuống nước kèm theo lời đọc" (Ep 5,26), một sự nhận chìm hay rảy nước có thể có nhiều ý nghĩa; công thức Thánh Tẩy cất đi mọi hàm hồ cho nghi thức, nhưng nếu tách rời ra, nó chỉ là một lời không có nền tảng. Mô thức và chất thể đều cần thiết trong các bí tích, công thức và nghi lễ bổ túc cho nhau. Trong bí tích Thánh Thể, mô thức là những lời truyền phép (thánh hiến), chất thể là bánh và rượu; trong bí tích Truyền Chức, mô thức là lời nguyện thánh hiến, chất thể là việc đặt tay. Các bí tích khác cũng theo cách tương tự (xc. Chất thể).

 

Mở Ra (Nghi Thức)

(= Ephpheta)

Từ araméen có nghĩa là hãy mở ra. Từ ngữ này được lấy từ việc Chúa chữa lành người câm điếc trong Tin Mừng (Mc 7,34) đưa vào nghi thức cử hành bí tích Thánh Tẩy. Sau khi rửa tội một trẻ nhỏ, vị chủ sự chạm vào tai và miệng đứa bé và đọc: "Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, ban cho con sớm có thể đón nghe Lời Người và tuyên xưng đức tin để con ca tụng vinh quang Chúa Cha".

Nghi thức mở ra là một trong những nghi thức cuối cùng trong toàn bộ nghi thức đưa dẫn một người trưởng thành tiến dần tới bí tích Thánh Tẩy. Nghi thức này có thể được thực hiện trong chính ngày được Thánh Tẩy, ngay trước khi rửa tội. Vị chủ sự lấy ngón tay cái chạm vào tai và miệng người dự tòng và nói: "Ephpheta! Hãy mở ra! Hãy dùng miệng mà tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận nhờ nghe loan báo".

 

Mũ Giám Mục

(= Mitre)

Tiếng Hy Lạp Mitra có nghĩa là dây lưng, dải băng, mũ. Theo các lễ nghi Cựu Ước, vị thượng tế và các tư tế mang một dải khăn, phía trước có kết một bông hoa bằng vàng, là dấu chỉ thánh hiến (xc. Xh 39,28.30-31; Lv 8,8). Phong tục Kitô giáo cũng chấp nhận việc các tư tế đội mũ, nhưng chỉ dành riêng cho các giám mục, ngoại trừ ở Ác-mê-ni thì dành cho cả linh mục. Khó mà vẽ lại hình ảnh mũ giám mục thời đầu Kitô giáo bao gồm: dải băng quấn đầu, hay mũ trùm đầu, kèm thêm một khăn mỏng (giống như mũ các chức sắc ở Ðông Phương), một tấm kim khí là dấu hiệu của tư tế, một vòng cuốn quanh đầu có đính một viên ngọc quí, v.v... Từ thời trung cổ, dần dần hình thành kiểu mũ giám mục như hiện nay: Tấm kim khí nặng nề và lạnh lẽo được thay thế bằng một dải khăn vấn đều có trang trí, thắt lại phía đằng sau đầu bằng một sợi dây dài, sau đó sợi dây này trở thành hai dải rủ xuống đằng sau mũ; còn tấm khăn mỏng, lúc đầu rất rộng, về sau thâu bớt lại rồi vén lên trên vòng cuốn, phân ra hai phía; sau cùng, dải khăn vấn đầu nhô lên phía trước và sau, thành nơi chính để trang hoàng, trong khi đó tấm khăn mỏng thu gọn lại chỉ còn đủ che đỉnh đầu.

Loại mũ này dành riêng cho giám mục và viện phụ, thường đi liền với gậy (xc. Phù hiệu giám mục). Một số giám chức, dù không phải là giám mục hay viện phụ, đôi khi cũng được đặc ân đội mũ này.

 

Mũ Sọ

(= Calotte)

Tiếng La tinh calva có nghĩa là sọ, hộp sọ. Một loại mũ hình tròn đội trên đỉnh đầu. Mũ sọ là dấu chỉ chức vị trong Hội Thánh, cùng màu với áo chức: giám mục đội mũ tím, hồng y đội mũ đỏ, giáo hoàng đội mũ trắng.

 

Mùa Chay

(= Carême)

Danh từ thu gọn của từ quadragessima (dies): là khoảng thời gian "tứ tuần" hay 40 ngày trước lễ Phục Sinh. Mùa Chay là mùa chuẩn bị cho việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua hằng năm, được ghi dấu bằng việc sám hối và kêu gọi hối cải. Mùa Chay kéo dài 40 ngày: ông Môsê và ông Êlia đã chuẩn bị trong vòng 40 ngày trước khi diện kiến Giavê (Xh 24,18; 1V 11,8); chính Chúa Giêsu đã phải chiến đấu 40 ngày với satan (Mt 4,2). Hội thánh không thực hành việc sám hối trong ngày Chúa nhật, vì là ngày cử hành mầu nhiệm Phục Sinh hằng tuần, kể cả trong Mùa Chay; chính vì thế, để bù lại những Chúa Nhật đó, Hội Thánh khởi đầu việc chay tịnh của Mùa Chay kể từ thứ Tư Lễ Tro, tức là thứ Tư liền trước Chúa Nhật I Mùa Chay.

Thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh là hai ngày chay tịnh buộc theo giáo luật: các tín hữu trưởng thành và khỏe mạnh đều phải giữ luật ăn chay. Ngoài hai ngày chay buộc nói trên, tùy theo sự thúc đẩy của Thánh Thần, các tín hữu dâng lên Thiên Chúa những sự khổ chế tự nguyện.

Trong Mùa Chay, dùng phẩm phục màu tím, trừ Chúa Nhật Leatare (Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay, Chúa Nhật Mừng Vui Lên) (xc. Laetare), có thể dùng phẩm phục màu hồng. Không nên chưng hoa trên bàn thờ hoặc trong nhà thờ và cũng không đệm đàn khi hát. Ðể kêu gọi hoán cải, có thể đề xuất những dấu chỉ khác để bổ túc hoặc thay thế cho những cách thực hành sám hối truyền thống của phụng vụ.

 

Mùa Phụng Vụ

(= Temps)

Là thời khoảng dài ngắn hơn kém trong năm phụng vụ làm nổi bật tính cách đặc biệt mỗi mùa. Theo thứ tự, ta có thể kể: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Hiển Linh, vài tuần lễ Mùa Thương Niên, Mùa Chay, Mùa Phục Sinh, và thời gian dài nhất của Mùa Thường Niên (xc. Phần các mùa).

 

Mùa Vọng

(= Avent)

Tiếng La tinh adventus có nghĩa là đến. Mùa Vọng là mùa phụng vụ để chuẩn bị ráo riết cho việc Chúa đến, bắt đầu từ Chúa Nhật thứ tư trước lễ Giáng Sinh. Mùa Vọng sử dụng phẩm phục màu tím, nổi bật nhờ sự sám hối mang tính cách vui tươi. Thông thường người ta không đệm đàn khi hát phụng vụ và không chưng hoa.

Mùa Vọng cử hành ba lần Chúa đến: Giáng Sinh tại Bêlem trong quá khứ, đang ngự đến tâm hồn bằng ân sủng và sẽ trở lại trong vinh quang vào thời cánh chung. Ngay từ khởi đầu năm phụng vụ, việc đối chiếu với quá khứ, hiện tại, tương lai, vốn thuộc cơ cấu của phụng vụ tại thế, đã được biểu lộ rõ rệt (xc. Tưởng niệm).

Năm phụng vụ này chuyển sang năm phụng vụ khác một cách tự nhiên. Những Chúa Nhật cuối cùng của mùa Thường Niên chuẩn bị cho việc Chúa quang lâm và cuộc chung thẩm, cao điểm là lễ Chúa Kitô Vua. Giai đoạn đầu Mùa Vọng chủ yếu đề cập đến sự xuất hiện sau cùng của Chúa Kitô (tương lai). Kể từ ngày 17/12, bắt đầu tuần lễ chuẩn bị đặc biệt cho lễ Giáng Sinh, chú trọng nhiều hơn đến việc tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh của Ðấng Cứu Thế (quá khứ), nhờ đó, chúng ta có thể tiếp nhận ân sủng cứu độ dồi dào hơn (hiện tại). Như vậy, phụng vụ hiện thực hóa quá khứ trong hiện tại, nhằm đặt nền cho tương lai: phụng vụ thực hiện điều đó với một nghệ thuật toàn hảo, biểu hiện sự sung mãn mà phụng vụ vốn có.

 

Mục Tử

(= Pasteur)

Tiếng La tinh pasteur có nghĩa là người chăn cừu. Trong các sách phụng vụ, phần chung các thánh lãnh đạo được dùng cho các thánh giám mục, linh mục, là những vị hướng dẫn tín hữu đến quê trời, qua việc nuôi dưỡng họ bằng bánh Lời Chúa và Mình Chúa.

 

Muối

(= Sel)

Muối là chất liệu dùng để chế biến và bảo quản thức ăn, muối cũng là thành phần trong các của lễ thuộc phụng vụ Cựu Ước. Sách Lêvi truyền dạy: "Ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm người dâng tiến, ngươi không được để lễ phẩm các ngươi thiếu muối của Giao Ước Thiên Chúa ngươi, ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của ngươi" (2,13; Xh 16,4; 2V 2,20; Ds 18,19). Muối làm cho việc thiêu các của lễ hiến tế được mau hơn. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu so sánh các môn đệ với muối: vai trò của môn đệ là làm cho thế giới trở nên hợp "khẩu vị" của Thiên Chúa, điều đó giả thiết họ không thể nhạt đi được (Mt 5,13). Trong phụng vụ, muối chỉ được dùng trong nghi thức làm phép nước thánh, nhưng chỉ là tùy ý. Ðể làm phép muối, trước khi bỏ muối vào trong nước, linh mục đọc công thức gợi lại một giai đoạn trong những lần ngôn sứ Êlisêô đã đổ muối vào nước (2V 2,19-22). Muối hòa với nước là biểu tượng sự hiện diện sống động của Thánh Thần khôn ngoan.

 

Muôn Lạy Chúa (Thánh Ca)

(= Nunc dimittis)

Những từ đầu tiên trong bài ca của cụ Ximêon, được đọc mỗi ngày trong giờ Kinh Tối. Bài ca tạ ơn vắn tắt này, do thánh Luca thuật lại (Lc 2,29-32), là một lối diễn tả đặc biệt để bày tỏ lòng tri ân, sự bình an và niềm hy vọng. "Muôn lạy Chúa, giờ đây...", bài ca đó được long trọng hát lên trong cuộc rước kiệu ngày 2 tháng 3, lễ dâng Chúa Giêsu vào Ðền Thờ.

 

 


Back to Home