Tìm hiểu và chia sẻ
đời sống Tin Mừng

Linh Mục Augustine, SJ. phụ trách

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


 

Ngày 16 tháng 06 năm 2002

Chúa Nhật 11 Thường Niên Năm A

 

Ðọc Tin Mừng  Mt 9,36-10,8

9 36 Ðức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đẩy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."

10 1 Rồi Ðức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

2 Sau đây là tên của mười hai tông đồ: đứng đầu là ông Si-mon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Dêbêđê và ông Gioan, em của ông; 3 ông Philipphê và ông Batôlômêô; ông Tôma và ông Mátthêu người thu thuế; ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêo; 4 ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Ítcariốt, chính là kẻ nộp Người. 5 Ðức Giêsu sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng:

"Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. 6 Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen. 7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nưới Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi  được sạch bệnh, và trừ khử ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy."

 

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Chúa Giêsu đã về trời từ hơn 2000 năm nay, nhưng mệnh lệnh truyền giáo của Người hãy còn rất cấp bách. Theo thông kê trong cuốn Niên Giám 1999 của Toà Thánh, được đệ trình lên Ðức Thánh Cha ngày 20.2.1999, tổng số người Công giáo trên thế giới tính đến ngày 31.12.1997, là 1 tỉ rưỡi người. Tuy nhiên, con số xem ra đông đảo ấy chỉ chiếm 17,3% dân số hoàn cầu. Các lục địa có số người Công giáo đông nhất là Mỹ Châu (62,9%), rồi đến Âu Châu (41,1%) và Úc Châu (27,5%). Riêng Phi Châu chỉ có 14,9% và Á Châu: 3%! (Theo CGDT số 1197)

Tại Việt Nam, theo con số thống kê của các giáo phận vào năm 1995, trên toàn quốc có 4,646,575 người Công giáo số với tổng số dân của cả nước hơn 70 triệu người, tức chỉ chiếm dưới 7%. (Theo cuốn Công Giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm: 1945-1995, do CGDT xuất bản năm 1996, trang 509). Như vậy, nếu không tính con số anh chị em Tin Lành trong nước, thì cứ 100 người sống trên mảnh đất Việt Nam, có tới 93 người chưa tin Chúa! Một tỉ lệ khiến chúng ta phải suy nghĩ!

Câu chuyện "Xóm Chùa"

Cộng đoàn nhỏ bé gồm 3 người của Thầy Sáu Sơn vừa mua một căn nhà ở Xóm Chùa. Người dân trong khu vực gọi tên xóm ấy như thế vì xóm ở gần một ngôi Chùa; vả lại hầu hết bà con trong xóm đều là Phật giáo. Ðến sống ở Xóm Chùa, Thầy Sơn học biết thêm nhiều điều về những người láng giềng "bên lương" của Thầy.

Ðiều làm Thầy Sơn ngại ngùng nhất khi mới tiếp xúc với bà con trong xóm, là sự kính trọng đôi lúc thái quá mà họ dành cho Thầy. Về sau Thầy hiểu ra rằng truyền thống Á Ðông ta vốn trọng khổ hạnh và thoát tục, vì vậy cũng dễ hiểu tại sao bà con kính trọng các bậc tu hành, dù các vị thuộc tôn giáo nào. Cũng qua việc chung sống với bà con, Thầy nhận ra họ là những người hiền hoà, trọng nhân nghĩa. Qui tắc luân lý của họ là phải ăn ngay ở lành, phải có lòng NHÂN và tôn trọng sự sống, không chỉ nơi con người mà còn cả nơi các thụ tạo khác: "Thiên địa đại đức viết sinh" - nhân đức cao cả nhất trong trời đất là sự sống.

Với một lương tâm bình an, thanh thản khi sống theo triết lý hoà hợp đó, những người láng giềng của Thầy Sơn dường như không cảm thấy cần thiết phải đi tầm đạo ở đâu khác. Họ cũng chẳng bận tâm tìm hiểu xem đạo giáo của Thầy có gì đặc sắc, mặc dầu họ vẫn một mực kính trọng Thầy và thỉnh thoảng còn mang xôi chè biếu Thầy vào những dịp rằm lớn.

Thánh đố

Câu chuyện Xóm Chùa trên đây phản ánh một thách đố chung cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng ở Á Châu, một lục địa đã ăn sâu cắm chặt vào những truyền thống nhân bản và tâm linh tự ngàn đời của nó, đến độ sau 4 thế kỷ chinh phục, Kitô giáo chỉ chinh chiếm lĩnh được tâm hồn của 3% dân số châu lục này. Trong những năm gần đây, hầu chuẩn bị cho Giáo Hội bước vào Ngàn Năm Thứ Ba, Ðức Gioan Phaolô II đã triệu tập các Thượng Hội Ðồng Giám Mục của từng châu lục, để duyệt lại các công việc và cách thức truyền giảng Tin Mừng trên các châu lục ấy. Tại kỳ họp của THÐGM Châu Á đầu năm 1998, các Giám Mục Á Châu đã cố phân tích những nguyên nhân khiến việc Tin Mừng hóa ở lục địa này chậm phát triển. Một trong những lý do chính yếu được nêu lên là Giáo Hội trong quá khứ đã quá chậm trễ trong việc mở ra và đối thoại với các truyền thống văn hóa và thiêng liêng lâu đời của Á Châu, để tìm ra nơi đó những phương thế thích hợp cho việc truyền đạt những giá trị của niềm tin Kitô giáo.

Vì vậy, tại Việt Nam chẳng hạn, trong suốt nhiều thế kỷ, người Công giáo Việt Nam hầu như đã sống bên lề văn hoá của quê hương mình, bởi lẽ khi chịu phép rửa tội, họ không còn được phép giữ phần lớn những tập tục của truyền thống mà Giáo Hội thời đó cho là không phù hợp với đức tin Công giáo (như thờ kính tổ tiên, ma chay, tục lệ ngày tết...). Hơn thế, những giáo dân đó còn bị coi là "tây hoá" từ việc xây cất nhà thờ, nghi thức phụng vụ, cho đến cả cách sống và nếp suy nghĩ.

Một cơ hội bị bỏ lỡ

Nói như thế không có nghĩa là, trong quá khứ, Giáo hội không có nhưng mẫu gương hội nhập vào văn hóa bản xứ một cách đặc sắc hầu giúp đẩy mạnh việc Truyền giáo. Xin đơn cử ở đây trường hợp Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes - Thế kỷ XVII), người đã có công đưa đức tin công giáo vào hoà hợp với những giá trị văn hoá Việt Nam. Chẳng hạn cha biên soạn chữ quốc ngữ để quảng bá đức tin dễ dàng hơn. Vì biết người dân Việt ưa chuộng chèo, hát, cha đã cho sáng tác những bài vè, bài thơ về Phúc Âm, về giáo lý, tổ chức ngắm đứng trong Mùa Thương Khó và cho Dâng Hoa tôn kính Ðức Mẹ. Ngoài ra, vì nhận thấy người Việt rất trọng luân thường đạo lý, cha đã khởi sự cuốn giáo lý "Phép Giảng Tám Ngày" bằng việc dạy Mười Ðiều Răn, về đời sau; sau đó mới đề cập đến các mầu nhiệm về Thiên Chúa. Cũng vậy, ý thức rằng dân quê Việt Nam rất mê tín, đâu đâu cũng thấy thần thánh, lại thích những gì cụ thể để diễn tả các tâm tình tôn giáo, cha đã phổ biến rộng rãi việc dùng nước phép, nến phép, các ảnh tượng thánh và tổ chức những lễ nghi linh đình. Cuối cùng, cha Ðắc Lộ yêu mến và đề cao những gì là Việt Nam; cha chủ trương hết sức giữ nguyên những tập tục gia đình, xã hội, văn hoá nghệ thuật của địa phương, chỉ trừ những gì thật sự mê tín và trái với Tin Mừng. Ngài cũng tin tưởng ở lòng đạo của người bản xứ, đến mức đã xin Toà Thánh đặt các Giám Mục người Việt để cai quản Giáo Hội bản xứ trong thời buổi cấm đạo mà các thừa sai ngoại quốc khó xuất đầu lộ diện.

Ðáng tiếc là những sáng kiến hội nhập văn hoá của cha Ðắc Lộ đã không được đón nhận kịp thời. Vì thế Giáo Hội đã để lỡ cơ hội đưa đức tin Kitô giáo ăn sâu bén rễ vào các nền văn hoá lớn ở Á Châu như Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Ngày nay, với công cuộc canh tân của Công Ðồng Vaticanô II (1962-1965), người Công giáo Việt Nam (cũng như người Công giáo ở khắp nơi) đã được phép cử hành các nghi thức phụng vụ bằng tiếng mẹ đẻ của mình; đồng thời họ được khuyến khích hội nhập các giá trị truyền thống của văn hoá bản xứ vào việc truyền giảng đức tin. Tuy nhiên, công cuộc trở về với truyền thống sau nhiều thế kỷ bị phân cách không phải là con đường phẳng phiu, như lời nhận xét sau đây của Ðức Cha Nguyễn Như Thể tại THÐGM Á Châu: "Ngày nay, Toà Thánh đã cho phép thờ cúng tổ tiên, nhưng muộn mất rồi, vì người Công Giáo không quen nữa nên khó chấp nhận."

Truyền giáo khởi đi từ việc sống Ðức Ái

Vượt trên mọi hình thức hội nhập văn hoá, có một đòi hỏi hội nhập nền tảng hơn hết: đó là HỘI NHẬP TÌNH YÊU, hội nhập của "văn hoá đức ái". Thật vậy, trong chỉ thị liên quan đến Truyền Giáo ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu dã sai các đồ đệ của Người đi để loan báo Tin Mừng, đồng thời để chữa lành mọi tật bệnh của người khác (c.10,8). Như thế, loan báo Phúc Âm và thăng tiến đời sống những người nghèo khổ, bị bỏ rơi đều là những đòi hỏi cấp bách của Ðức Ái. Hơn nữa, một chứng từ tình yêu siêu việt sẽ có sức mạnh thuyết phục hơn bất cứ một lời giảng thuyết hùng biện suông nào. Chính Mẹ Têrêsa Can-cút-ta, chẳng hạn, đã chọn cách thức "nói" về Thiên Chúa (tức Truyền Giáo) khởi đi từ việc sống Ðức Ái.

Quả thật, Mẹ Têrêsa đã theo sát gót bước Chúa Giêsu khi mẹ "chạnh lòng thương" trước những người nghèo khổ, bệnh tật, hấp hối, không được ai chăm sóc trên các vỉa hè của thành phố Can-cút-ta. Chắc hẳn tâm hồn Mẹ đã bị dằn vặt nhiều trước những con người không có cơ hội sống và chết xứng đáng với nhân phẩm là con cái Thiên Chúa. Cuối cùng, Mẹ đã đặt mình để được Chúa sai đi chăm sóc những con chiên không có người chăn đó, không phải bằng lời nói, nhưng trước hết và trên hết bằng những cử chỉ bác ái siêu vượt.

Chắc hẳn không phải mọi Kitô hữu đều có thể trở nên những Thừa Sai Bác Ái như Mẹ Têrêsa; nhưng tất cả những ai đã chịu phép rửa để thuộc về Chúa Kitô, cũng đều phải thực thi Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa dạy ta trước tiên, phải cầu xin cùng Thiên Chúa, để chính Người sai ta đi. Một khi kiên trì cầu xin điều ấy, chính Chúa sẽ giúp ta mở cõi lòng hầu có thể yêu tha nhân như chính mình. Nhờ đó ta có thể dễ dàng nói về Chúa cho mọi người hơn.

Ta cũng không quên cầu nguyện cho những người đang âm thầm làm chứng tá cho Chúa trên quê hương Việt Nam (như Thầy Sáu Sơn và cộng đoàn của Thầy), để nhờ việc gắn liền với Chúa Giêsu là thân nho, công việc của các vị đó cũng mang lại nhiều hoa trái cho đất nước Việt Nam, như Mẹ Têrêsa đã mang lại biết bao thành quả cho cánh đồng truyền giáo trên thế giới.

 

Một số câu hỏi gợi ý

1. Có bao giờ bạn nghĩ rằng một số người đã dửng dưng với đạo Công giáo và không màng tìm biết về Chúa vì họ có một số thành kiến, hay một số hiểu lầm về Ðạo và về những người có Ðạo không? Liệu có cách nào giúp họ vượt qua những trở ngại đó?

2. Theo bạn, cách thức "Truyền Giáo khởi đi từ việc sống Ðức Ái" như Mẹ Têrêsa sẽ hữu hiệu như thế nào với môi trường bạn sống?

3. Bạn có thể góp phần vào công cuộc truyền giáo như thế nào qua cầu nguyện, qua việc làm cụ thể, qua giáo dục ý thức truyền giáo cho con cái?

 


Back to Home Page