Tìm hiểu và chia sẻ
đời sống Tin Mừng

Linh Mục Augustine, SJ. phụ trách

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


 

Ngày 21 tháng 04 năm 2002

Chúa Nhật 4 Phục Sinh Năm A

 

Ðọc Tin Mừng Ga 10, 1-10

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với người Do thái rằng: 1 "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. 5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không biết tiếng người lạ." 6 Ðức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó,nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

7 Vậy Ðức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. 9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào."

 

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Cuốn tiểu thuyết lừng danh "Quo Vadis?" (Thầy đi đâu đó?) từng được dựng thành phim, là một thiên sử hùng tráng về các vị tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma vào thế kỷ thứ nhất. Tác giả cuốn giả sử ấy đã thuật lại truyền thuyết như sau về cuộc tử đạo của thánh Phêrô, vị Giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Dưới sự bách hại tàn khốc của bạo chúa Nêrô, thánh Phêrô đã quyết định lánh nạn khỏi Rôma để thoát khỏi lưỡi đao tàn bạo mà các đao phủ dành cho những kẻ tin vào Chúa Kitô. Phải chăng vị thánh đã từng ba lần chối Chúa lại toan tháo thân một lần nữa? Hay là Ngài nghĩ rằng ngài cần phải sống để tiếp tục lèo lái con thuyền Giáo Hội đang trong cơn hiểm nghèo? Thế nhưng đang lúc ra khỏi cửa thành trong đêm tối, thánh Phêrô thoáng thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đang hối hả đi vào trong thành. Ngài vội vả đuổi theo Thầy mình và cất tiếng hỏi: "Quo vadis?" (Thầy đi đâu đó?). Chúa Giêsu trả lời: "Ta vào thành để chịu đóng đinh một lần nữa cho đoàn chiên của Ta", đoạn Người biến mất. Nghe những lời đó, Phêrô chợt hiểu ra rằng Chúa muốn Ngài phải ở lại trong thành để cùng sống cùng chết với Dân Chúa. Ngay lập tức, Phêrô quay trở lại vào thành và chẳng bao lâu sau đã bị bắt giữ và mang ra hành hình. Khi tới pháp trường, vị tông đồ cả của Giáo Hội chỉ xin các đao phủ một đặc ân: đó là được chết treo ngược đầu xuống đất, trên một thập tự giá hình chữ X, vì thánh nhân tự cảm thấy không xứng đáng được chết trong cùng một tư thế như Thầy mình.

Cho dù những tình tiết trong câu chuyện trên đây là thực hay hư cấu, cái chết của Phêrô đã khiến ngài trở nên giống Thầy Giêsu: đó là trở nên người mục tử nhân lành, thí mạng sống vì đoàn chiên.

Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Ðức Giêsu xưng mình là "Chúa chiên lành", đối lại với "kẻ trộm cướp" (ám chỉ người Pha-ri-sêu). Chúng ta cần hoà mình vào bối cảnh chăn nuôi du mục ở xứ Pa-lét-tin thời Ðức Giêsu, để có thể hiểu được ý nghĩa của hai hình ảnh "người mục tử tốt" và cửa chuồng chiên" mà Người tự ví về mình.

Thật vậy, cả hai hình ảnh này đều liên quan đến sinh hoạt về đêm và vào rạng sáng của người chăn chiên đối với bầy gia súc. Trong một số vùng, lúc chiều về, các mục tử thường đem gửi bầy chiên của mình vào một chuồng lộ thiên, được rào chắn cẩn thận hầu ngăn ngừa thú dữ và kẻ trộm. Chuồng đó chỉ có môt cửa ra vào duy nhất, do một người gác đêm canh giữ. Khi hừng đông xuất hiện, mỗi mục tử quay lại nhận đàn chiên của mình ngay tại cửa chuồng. Kẻ đến bắt chiên mà không qua cửa ắt là kẻ trộm, vì nó sợ người canh gác cửa.

Thật khó hình dung sự thân thiết của người mục tử với từng con chiên. Cũng như giữa từng con chiên với người mục tử. Cuộc sống chung thường xuyên với nhau trên núi hoặc trong những đồng cỏ đã khiến chủ-chiên vô cùng khắng khít với nhau. Mỗi con chiên nhận ra chủ qua tiếng của người đó; còn chủ chiên thì biết rõ tính tình của từng con chiên trong bầy. Khi đến cửa chuồng, người mục tử chỉ cần huýt sáo ra hiệu hoặc thốt lên một hiệu lệnh quen thuộc nào đó (chẳng hạn: bia, bia, bia...) thì các con chiên của anh sẽ lục tục kéo ra cửa, từng con một. Ðiều kỳ diệu là tuy mọi con chiên đều nôn nóng được ra đồng để thưởng thức những ngoạm cỏ ngon ngọt còn đượm hơi sương, nhưng chúng không bao giờ đi theo một người chủ lạ. Trái lại, chúng kiên nhẫn chở nghe đích thị tiếng gọi của chủ mình rồi mới ra. Ðối với chiên, tiếng ra hiệu của chủ đồng nghĩa với đồng cỏ non, với mạch suối mát, nơi mà nó sẽ được tung tăng suốt ngày để ăn no nê, vui thoả thích và nghỉ ngơi một cách êm đềm.

Trong một vài vùng khác, nhất là trên núi cao, người mục tử thường chăn bầy chiên riêng lẻ. Lúc đêm về, người đó thường lùa chiên vào một hang động hay một khe núi hẹp và nằm chắn ngang lối ra để bảo vệ bầy chiên. Vì vậy, người chăn chiên cũng chính là "cửa" chuồng thiên nhiên đó. Nếu trong đêm, "cửa" là rào chắn an toàn cho chiên, thì lúc rạng sáng, "cửa" chính là lối đưa chiên đến cánh đồng xanh no thoả và suối mát ngọt ngào. Khi Ðức Giêsu xưng mình là "cửa chuồng chiên", Người đã tự vì mình với loại người chăn chiên này.

Mục tử tốt lành và kẻ trộm cướp

Các sách Phúc Âm thường đối lập hình ảnh Ðức Giêsu (vị mục tử tốt lành) với hình ảnh các nhà lãnh đạo Do-thái-giáo đương thời. Chính Ðức Giêsu cũng lên tiếng cảnh giác đoàn chiên của Người hãy coi chừng các ngôn sứ giả: loại người này thường đội lốt chiên mà đến với họ nhưng trong lòng lại là sói dữ ham mồi (Mt 7,15). Lúc khác, Người lại chỉ trích các ký lục và Pha-ri-sêu chỉ ngồi phán trên toà giảng của Môsê nhưng lại chẳng thi hành điều họ dạy làm: "Họ chất lên vai người khác những gánh nặng, nhưng chính họ lại không buồn đưa ngón tay nhấc thử" (Mt 23,2-4). Cũng vậy, họ chỉ chú ý trau chuốt bề đạo đức, như nới rộng dải vải ở tay, may dài tua áo; đòi người khác xưng hô là Thầy nơi công cộng; luôn chiếm chỗ nhất ở hội đường và đám tiệc; bày vẽ cầu kinh lâu giờ để nuốt trọn tài sản của các bà goá (Lc 20,46-47).

Trái lại, Ðức Giêsu là hiện thân của người mục tử nhân hậu. Người đã hoá bánh ra nhiều để nuôi sống hơn 5,000 người đang lũ lượt tuốn đến nghe Người giảng dạy (Ga 6,1-15); Người đã băng bó vết thương trong lòng bà goá thành Na-im khi Người cho con trai bà được sống lại từ cõi chết (Lc 7,11-17); Người đã đi tìm "con chiên lạc" là ông Gia-kêu khi Người xin đến trọ tại nhà ông và đã khiến cả gia đình ông hoán cải (Lc 19,1-10); hơn thế, Người đã hy sinh chính mạng sống để đi dọn chỗ cho đoàn chiên yêu dấu trong Nhà Cha Người (Ga 14,2-4). Cuối cùng, trước khi rời bỏ các môn đệ, Người đã ba lần trao phó đoàn chiên cho Phêrô chăn dắt (Ga 21,15-17).

Ðức Giêsu là "cửa" đưa đến sự sống đích thực. Nhưng "cửa" của Người là cửa hẹp, nghịch với cửa rộng của thế gian vốn đưa đến diệt vong (Mt 7,13-15). Aáy vậy, cuộc sống của Kitô hữu chúng ta luôn bị giằng co giữa "cửa hẹp" và "cửa rộng"; giữa ánh sáng và bóng tối; giữa con đường sống và con đường diệt vong. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ dàng đi vào cửa hẹp. Chính lịch sử Dân riêng Chúa đã chứng thực điều này.

Giavê là Ðấng chăn dắt tôi (Tv 23)

Từ rất xa xưa, dân Ít-ra-en đã cảm nghiệm sâu xa rằng mình là Dân riêng do chính Giavê Thiên Chúa qui tụ và chăn dắt. Thánh Vịnh 23 về "Chúa chăn nuôi tôi" nói lên niềm hạnh phúc của dân khi được chính Giavê yêu thương và chăn dắt. Chính Người đã giải thoát dân Người khỏi tay sói là Pha-ra-ô, vua Ai cập, để đưa họ đến cánh đồng chảy đầy sữa và mật là Ðất Hứa. Ðáng buồn thay, tấm thảm kịch của Dân Ít-ra-en đã khởi sự ngay khi họ vừa dấn bước theo Chúa. Kinh nghiệm của dân cho thấy việc lựa chọn "cửa hẹp" đưa đến sự sống không phải lúc nào cũng dễ dàng và đơn giản.

Thật vậy, ngay khi vừa ra khỏi Ai cập, dân đã từ bỏ Giavê để thờ lạy bò vàng ở chân núi Sinai. Sau khi đã vào định cư ở Ðất Hứa, dân cũng hãy còn phản bội Giavê chạy theo thờ lạy các thần ngoại bang. Chính vì vậy dân đã phải gánh chịu nhiều cuộc ly tán, lưu đầy nơi đất khách quê người. Tuy nhiên, Giavê luôn nhớ tới đoàn chiên ngỗ nghịch và đã chạnh lòng thương xót chúng. Chính vì thế mà sau những thử thách Người đã sai đến với dân những mục tử thay mặt Người an ủi, nâng đỡ và giải thoát dân. Chính vì vậy mà sau đó, hình ảnh mục tử nhân lành vốn được dành riêng để nói về mối tương quan của Giavê đối với Dân riêng, cũng được áp dụng cả cho những sứ giả của Chúa. Trong số những mục tử con người này, có vị đã xuất thân từ nghề chăn nuôi thực thụ. Chẳng hạn Môsê đã được Chúa hiện ra trong bụi gai cháy để sai đi giải thoát dân khỏi Ai cập đang khi ông chăn cừu cho nhạc phụ trên núi Hô-rép (Xh 3,1-12); còn cậu thiếu niên Ðavít đã được bố gọi về chịu xức dầu tấn phong bởi tiên tri Samuel đang lúc cậu đang chăn chiên ngoài đồng (1Sam 16,1-13). Thế mà về sau, Ðavít đã trở thành vị vua lớn nhất trong lịch sử Ít-ra-en và đã đưa vương quốc của Dân Thiên Chúa đến chỗ cực thịnh.

Giáo Hội và xã hội ta đang sống luôn cần đến những mục tử tốt lành theo những đòi hỏi của chính Chúa Giêsu. Thực ra Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là mục tử nhân lành vì Người đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga 10,15-18). Người hãy còn tiếp tục sự hy sinh lớn lao trong bí tích Thánh Thể. Qua Thánh Lễ mỗi ngày, Chúa Giêsu luôn "phó nộp mình" một cách mới mẻ và sống động vì đoàn chiên. Qua bí tích Thánh Thể, Người luôn đặt mình trước "cửa" để bảo vệ đoàn chiên khỏi ảnh hưởng của thế gian, xác thịt. Chính máu Người đã đổ ra để thực hiện cách hữu hiệu công cuộc bảo vệ đó. Giáo Hội và xã hội ta đang sống sẽ được bảo vệ tốt nhất nếu mỗi thành viên biết và dám tham gia vào sự hy sinh lớn lao của chính Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành.

 

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn cảm nghiệm như thế nào về tình yêu thương và sự dẫn dắt của Chúa ngang qua những biến cố lớn trong đời bạn?

2. Hình ảnh vị mục tử nhân lành sống hết mình cho đoàn chiên gợi hứng cho bạn cư xử như thế nào đối với tha nhân: trong cương vị cha mẹ; thầy cô; y bác sĩ, hoặc trong nghề nghiệp riêng bạn đang theo đuổi?

 


Back to Home Page