Tìm hiểu và chia sẻ
đời sống Tin Mừng

Linh Mục Augustine, SJ. phụ trách

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


 

Ngày 14 tháng 04 năm 2002

Chúa Nhật 3 Phục Sinh Năm A

 

Ðọc Tin Mừng Ga 24, 13-35

13 Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Ðang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Ðức Giêsu tiến lại gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

18 Một trong hai người tên là Clêôpát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." 19 Ðức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?" Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đấy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn còn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy."

25 Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.

28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?"

33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: "Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." 35 Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

 

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Ánh sáng và bóng tối là chuyện thường tình nơi đời sống con người. Chúa Giêsu phục sinh nhằm đưa con người vượt khỏi bóng tối để đạt tới ánh sáng. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó.

Hãy coi hoàn cảnh của hai môn đệ làng Emmau. Hai ông thực sự đã trải qua những ngày hết sức đen tối. Tuy không phải là thành phần nòng cốt thuộc Nhóm Mười Hai, các ông thuộc nhóm môn đệ khá gắn bó với Ðức Giêsu. Bằng chứng là các ông đã không bỏ cuộc khi thấy Thầy các ông bị bắt và bị giết chết. Lý do vì các ông vẫn tin Thầy các ông chính là Ðấng cứu chuộc Ít-ra-en. Mãi tới ngày thứ ba, sau khi các bà đi viếng mộ và thấy mồ trống trơn, còn chính Ðức Giêsu thì chẳng ai gặp, các ông mới thất vọng và bỏ về quê ở Emmau. Tuy nhiên, chính trong giờ phút đen tối đó, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện đến với các ông, nhưng các ông không nhận ra Người. Bằng việc cắt nghĩa Lời Kinh Thánh dọc đường, Người đã làm lòng họ bừng cháy lên; kế đó, bằng việc bẻ bánh trong quán trọ, Người đã mở mắt cho họ nhận ra Người.

Riêng hai anh chị Y-vông và Mô-ních trong câu chuyện sau đây, đã vượt khỏi bóng tối nhờ một nhóm giáo dân biết sống nâng đỡ nhau trong nhữn gcơn cùng quẫn của cuộc sống. Ðó là nhóm người được qui tụ bởi Ðức Tin để đem Ánh Sáng cho người khác nên đã lấy tên nhóm là "Ðức Tin và Ánh Sáng". Câu chuyện này cũng cho thấy bằng cách nào Lời Kinh Thánh và Bí Tích Thánh Thể vẫn tiếp tục biến đổi con người hôm nay.

Lòng họ đã bừng cháy lên khi Người giải thích Thánh Kinh

Ðôi vợ chồng Mô-ních và Y-vông sinh sống ở thành phố Minh-sơn (Montréal), Canada. Họ tự coi cuộc hôn nhân của họ là một thất bại cay đắng, dù rằng lỗi không thuộc về người nào trong họ. Khi đi sinh hoạt sinh viên Công giáo ở tuổi đôi mươi, họ đã quen nhau, yêu nhau, rồi tin tưởng phó thác cuộc hôn nhân của họ cho Chúa. Nhưng nỗi bất hạnh đã đến với họ khi cô con gái đầu lòng, rồi cậu con thứ ra đời: cả hai đều bị khuyết tật tâm thần, suốt đời sẽ phải lệ thuộc vào sự chăm sóc của người khác. Mô-ních và Y-vông tự hỏi không biết đã làm gì khiến Chúa trao cho thập giá nặng nề đến thế. Nhưng rồi họ chẳng dám đẩy câu hỏi xa hơn sợ xúc phạm đến Thiên Chúa là Ðấng Nhân Lành. Tuy vậy, gánh nặng của nỗi bất hạnh đó luôn đè nặng trong tim họ.

Vào dịp rước lễ vỡ lòng của hai người con (lúc đó đã lên 17 và 15) do nhóm "Ðức Tin và Ánh Sáng" tổ chức cho người bị tâm thần, một câu trong bài Phúc Âm đã đáng động sâu xa tâm hồn của Mô-ních và Y-vông. Có lẽ niềm vui lớn lao trong ngày lễ của hai con đã khiến họ trở nên nhạy bén với câu Lời Chúa ấy: "Nếu hạt lúa mì chôn vào lòng đất mà không thối đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24). Họ thầm nghĩ: hoàn cảnh họ đang sống chẳng là sự mục nát của hạt lúa đời họ đó sao; thế mà suốt 20 năm qua, họ đã để hạt lúa đó cứ hư nát uổng phí mà chẳng sinh được bộng hạt nào, vì họ đã cứ để mình bị chôn vùi trong nỗi bất hạnh của họ. Nghĩ tới đó, "lòng họ bừng cháy lên". Kể từ đó, họ nhìn cuộc sống hiện có bằng cái nhìn mới, cố tìm gặp trong những sự việc thường ngày những dấu chỉ của tình yêu và của ân sủng Chúa. Cũng sau biến cố đó, gia đình Mô-ních và Y-vông đã tham gia sinh hoạt với nhóm "Ðức Tin và Ánh Sáng" ở Minh-sơn, và đã trở thành những người điều hành của nhóm từ hơn 10 năm nay.

Họ đã nhận ra Người lúc bẻ bánh

"Ðức Tin và Ánh Sáng" là một phân nhánh của phong trào "Cộng đoàn con tàu cứu nạn" do một giáo dân người Canada - Ông Giang Văn Nhiên (Jean Vanier) - sáng lập năm 1964. Cảm thương tình cảnh bị bỏ rơi của những người tàn tật, không được đối xử xứng đáng với nhân phẩm của con người và con Chúa, ông đã đón nhận những người đó và nuôi dưỡng họ trong những nhà thương, trong một bầu khí gia đình trong tinh thần huynh đệ Kitô giáo. Chẳng bao lâu sau, sáng kiến của ông đã được đón nhận khắp 5 châu và hiện nay "Con tàu cứu nạn" đã trở thành một phong trào quốc tế. Song song với phong trào này, một mạng lưới quốc tế các nhóm "Ðức Tin và Ánh Sáng" (ÐTAS) cũng đã được thiết lập để nâng đỡ đức tin và tinh thần của các gia đình có con em khuyết tật, đồng thời để tạo sự tương trợ lẫn nhau giữa các gia đình đó trong đời sống cụ thể.

Ðến với ÐTAS, Mô-ních và Y-vông được làm quen với nhiều gia đình khác cùng cảnh ngộ; có gia đình có tới 4 người con tàn tật. Sự nâng đỡ và các sinh hoạt của nhóm khiến họ không còn sống lẻ loi như trước. Ngoài những buổi tối chia sẻ Lời Chúa định kỳ của các phụ huynh và các cuộc viếng thăm tự phát giữa những gia đình, toàn nhóm thường tụ họp mỗi tháng một lần, trọn ngày, hầu cho các phụ huynh có thời gian rộng rãi để thông tin, trò chuyện; còn các con em khuyết tật có cơ hội gặp gỡ và vui chơi với nhau. Từ đó, một tình bạn sâu xa và một sự liên đới bền chặt đã nảy sinh giữa các gia đình. Các phụ huynh xem tất cả các con em như con cái của chính mình; họ sẵn sàng đón về nuôi dưỡng những em mà cha mẹ đau bệnh, già yếu hoặc phải đi xa. Vì thế cuộc họp hàng tháng còn là cơ hội đoàn tụ cho những gia đình phải phân tán do hoàn cảnh.

Dù được tổ chức ở đâu hay dưới hình thức nào (trong hội quán của một Giáo Xứ; một buổi dã ngoại tham quan hay trại hè) trọng tâm của các cuộc gặp gỡ của nhóm đều là Thánh Lễ, mà mọi người thông hiệp vào cuộc hy tế của Chúa Kitô và thông hiệp với nhau bằng chính những khổ đau, ưu tư, phiền muộn của họ. Cũng trong Thánh Lễ, họ cầu nguyện cho nhau, cùng nhau chia sẻ tấm bánh Thánh Thể, là lương thực giúp họ có sức thiêng tiếp tục cuộc lữ hành trong niềm tin và phó thác. Chính Thánh Lễ này và việc sống Bí Tích Thánh Thể nối dài trong cuộc sống bằng hiệp thông và chia sẻ, đã đem lại đức tin, ánh sáng và sức mạnh của Chúa phục sinh cho những thành viên của nhóm như gia đình Mô-ních và Y-vông.

Chúa Giêsu phục sinh vẫn tiếp tục hiện diện qua những bí tích

Câu chuyện hai môn đệ làng Emmau trình bày một minh họa sống động về việc Chúa phục sinh vẫn tiếp tục hiện diện với con người một cách huyền nhiệm qua bí tích; đồng thời cho thấy sức biến đổi mà bí tích mang lại. Thật vậy, qua một dấu chỉ vật chất là tấm bánh, cộng với cử chỉ bẻ bánh và dâng lời chúc tụng, Ðấng phục sinh đã mở mắt cho hai môn đệ Emmau nhận ra Người. Ngay lập tức, con người hai ông được biến đổi: họ chỗi dậy, quay về Giêrusalem ngay trong đêm tối để mang ánh sáng của Tin Mừng Phục Sinh cho các anh em.

Hàng ngày Giáo Hội cũng đặt mình để Chúa Giêsu Phục Sinh đến nuôi dưỡng và củng cố niềm tin của các tín hữu trong các bí tích. Chính qua những dấu chỉ vật chất (bánh, rượu, dầu thánh...), những cử chỉ (các nghi thức) và những Lời truyền bí tích của vị chủ tế, mà Chúa Giêsu Phục Sinh đến gặp gỡ và ban những ơn siêu nhiên cho những ai biết mở lòng ra tin nhận và đón nhận Người qua những dấu chỉ bí tích đó. Hơn thế, mọi Kitô hữu, một khi đã được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các bí tích, cũng được mời gọi trở nên những dấu chỉ bí tích, mang sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh đến cho những người chung quanh: bằng cách sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ, huynh đệ.

 

Một số câu hỏi gợi ý

1. Trong kinh nghiệm của bạn, những câu Phúc Âm nào có sức biến đổi sâu xa đức tin và lối sống của bạn?

2. Bạn tâm đắc được gì nơi kinh nghiệm của ÐTAS? Liệu tinh thần và các hoạt động của nhóm ấy có thể được áp dụng ít nhiều trong môi trường của bạn không?

3. Theo bạn, những bí tích nào là cần thiết để giúp người Kitô được tăng trưởng và canh tân không ngừng trong đời sống đức tin?

 


Back to Home Page