Tìm hiểu và chia sẻ
đời sống Tin Mừng

Linh Mục Augustine, SJ. phụ trách

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


 

Ngày 24 tháng 03 năm 2002

Chúa Nhật Lễ Lá Năm A

 

Ðọc Tin Mừng Mt 21, 1-11

1 Khi thầy trò Ðức Giêsu đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếtphaghê, phía núi Ôliu, Ðức Giêsu sai hai môn đệ và 2 bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh.  Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. 3 Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay." 4 Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ:  5 Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.

6 Các môn đệ ra đi và làm theo lời Ðức Giêsu đã truyền. 7 Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Ðức Giêsu cỡi lên. 8 Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9 Ðám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Ðavít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.  10 Khi Ðức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: "Ông này là ai vậy?" 11 Ðám đông trả lời: "Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy!"

 

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Vinh quang của tôi là Thánh Giá Ðức Kitô

Từ tàu chở than, một chiếc xuồng đưa người khách lạ hoắc lên bãi biển xứ Biên Tường (Bretagne) của nước Pháp. Hai ngư dân địa phương tò mò hỏi khách, liền được cho biết điều ước ao của ông là được tham dự Thánh Lễ ở một nhà thờ gần đấy. Ðó là sáng sớm lễ Giáng Sinh 1643.

Khách không những được dẫn tới nhà thờ mà còn được lo cho có mũ đội đầu, có khăn ấm quàng cổ. Vừa tới thánh đường, ông liền đi xưng tội để chuẩn bị mừng lễ sốt sắng. Trở về căn nhà ở bãi biển đã đón tiếp ông, khách được mọi người quí mến lắng nghe sau bữa ăn. Không ai dám hỏi thẳng vấn đề liên quan tới thân hình khách, nhưng ai cũng thấy hai bàn tay ông mang đầy sẹo với một số ngón cụt tới phân nữa, một số ngón mất móng, còn ngón cái tay trái thì không còn. Hai gò má nơi dung mạo ông lõm với làn da nhăn nheo.

Cho dầu khách muốn ẩn danh nhưng cuối cùng cũng phải cho chủ nhà biết mình là linh mục thừa sai Dòng Tên với danh xưng An Sang Giang (Isaac Jogues), người thành phố Orleans nước Pháp, đi truyền giáo ở Bắc Mỹ và bị người Da Ðỏ Uông Tinh (Iroquois) bắt giữ từ hơn một năm; nhờ người Hà Lan giúp mới thoát cảnh nô lệ, để về thăm quê hương.

Nghe chuyện cảm động, ai nấy đều rướm lệ. Riêng hai cô bé chủ nhà bàn tính với nhau và đã đập con heo đất lấy số tiền nhỏ kính tặng vị thừa sai.

Thế là từ căn nhà tranh, tin đến tai nhà buôn giàu có của thành phố Rennes, đó là ông Bùi Văn Sơn (Berson). Ông đến tận nơi gặp cha An Sanh Giang và lấy ngựa chở ngài về nhà các cha Dòng Tên tại Rennes sáng sớm ngày 5 tháng 1, năm 1644.

Từ Rennes, cha An Sanh Giang về Orléans thăm mẹ và gia đình hai ngày. Sau đó cha tới Paris. Ðâu đâu cha cũng được theo dõi và thán phục như một vị tử đạo, đến nỗi Hoàng Hậu Anna nhiếp chính cai trị nước Pháp thay vua Luy XIV, con của bà còn nhỏ tuổi, cũng muốn gặp cha. Cha tìm mọi cách để tránh né nhưng không thành công. Hoàng hậu yêu cầu cha vui lòng kể lại những cực hình cha đã chịu do người Da Ðỏ hành hạ, cùng với những cuộc mạo hiểm, để thoát khỏi tay họ. Bà đã đặt hai bàn tay bị biến dạng của cha trong lòng bàn tay của bà, để nhìn cho kỹ dấu vết của cuộc khổ nạn cha đã trải qua. Nhân cơ hội, cha yêu cầu và được Hoàng hậu ký sắc lệnh nhân danh vua Luy XIV, gởi một đại đội Pháp Quốc tới canh giữ đồn binh đang được xây dựng để bảo vệ Sainte-Marie là tiền thân của thành phố Minh Sơn (Montréal) của Canada hiện nay.

Nơi Ngài ơn cứu độ của tôi

Theo giáo luật, cha An Sanh Giang không được dâng thánh lễ, vì ngón tay của tay trái hoàn toàn bị mất, còn ngón trỏ thì bị cụt ngủn nên cha không thể cầm Mình Thánh Chúa theo luật phụng vụ. Cha nhân cơ hội ở Paris, đã xin Ðức Urbanô VIII cho cha được phép dâng thánh lễ. Ðức Thánh Cha rất lấy làm cảm động về những đau khổ cha đã phải chịu nên đã đồng ý ngay về ơn cha xin với lời Ðức Thánh Cha nói: "Thật sẽ là điều xấu hổ để cho vị tử đạo của Chúa Kitô bị mất quyền uống Máu Thánh Người!"

Ðầu tháng 5 năm 1644, cha An Sanh Giang lên đường trở về xứ truyền giáo Canada với chính đại đội lính trẻ mà cha đã yêu cầu chính phủ Pháp gởi sang Canada. Giữa biển cả, tàu gặp bão lớn với những lưỡi sóng cao ngất như muốn chôn vùi hành khách xuống đáy biển. Mọi người đều hoảng sợ trong tuyệt vọng. Một mình cha An Sanh Giang kiên trì cầu nguyện giờ kinh phụng vụ. Cha sử dụng ngay lời ngôn sứ Isaia để khuyên mọi người thống hối ăn năn và tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, đoạn cha ban phép giải tội chung. Lập tức, mọi người đều nhận ra cơn bão đã lắng xuống. Thoát khỏi hiểm nguy, ai nấy đều được khuyến khích để tạ ơn Thiên Chúa. Họ cũng tỏ lòng biết ơn cha An Sanh Giang, người mà họ kể như một vị thánh. Những ngày kế tiếp bọn lính trẻ đều lần lượt đến xưng tội và nhận bí tích hoà giải.

Khi tàu cập bến Canada, cha An Sanh Giang hết đỗi vui mừng đước thấy ngoài các bạn cùng Dòng, còn có nhiều người dân tộc An Dương Kinh (Al Gonquins) ra đón. Cha rất thương hại dân tộc An Dương Kinh và Hướng Dương (Hurons) là hai dân tộc đang bị đe dọa tuyện chủng vì nạn đói và nạn dịch cũng như vì dân tộc Uông Tinh sát hại họ cách tàn nhẫn. Do đó cha lại xung phong đến với dân tộc Uông Tinh là dân tộc đã từng giam giữ cha, vì cha mong trở nên dụng cụ Chúa dùng hoán cải người Uông Tinh, hầu mang lại bình an giữa các dân tộc ít người.

Sức sống của tôi

Vào mùa xuân 1645, một biến cố xảy ra, trở nên cơ hội quan trọng cho sứ mạng cha An Sanh Giang. Ðó là hai người Uông Tinh bị người An Dương Kinh bắt làm tù binh. Một trong hai người này lại là cháu của người mà cha An Sanh Giang nhận làm bà cô. Chao liền vận động để hai người này được trả tự do. Người Pháp nhân cơ hội tổ chức cuộc hoà đàm ba phía, gồm người Pháp, người An Dương Kinh và người Uông Tinh. Cuộc hoà đàm diễn ra từ tháng 6 năm 1645 đến tháng 5 năm 1646. Ba bên đều nhất trí trả tù binh và không tấn công nhau. Sau hội nghị, mỗi bên gởi phái đoàn đi thăm hai bên kia. Cha An Sanh Giang tự nguyện làm đại sứ cho người Pháp sang thăm người Uông Tinh. Chuyến đi thành công tốt đẹp, mang lại hy vọng lớn cho công cuộc truyền giáo giữa những dân tộc liên hệ.

Nhưng bóng tối hãy còn bao phủ mối tương quan giữa hai dân tộc Hướng Dương và Uông Tinh. Cùng với một số thủ lãnh của dân Hướng Dương, cha An Sanh Giang tự nguyện đi đến với dân Uông Tinh để hoà giải. Cùng đi với cha, còn có hiến sinh giáo dân người Pháp là anh Gioan Lâm Ðiền (Jean de la Lande) 25 tuổi.

Ðiều không may xảy ra là tại đó mới có cơn dịch sát hại nhiều người. Liền sau đó là nạn hạn hánh khiến mùa bắp thất thu nặng. Các thầy pháp cắt nghĩa cho thấy lý do của cả hai tai nạn đều do lá bùa cha An Sanh Giang còn để lại trong chiếc rương khi ngài chạy thoát thân nhờ sự giúp đỡ của người Hà Lan.

Cuộc họp để xét xử cha An Sanh Giang ngày 17.9.1646 chưa ngã ngũ. Các tù binh hiện bị giữ làm con tin. Cha An Sanh Giang và anh Lâm Ðiền được giao cho bà cô giữ. Nhưng chiều hôm ấy, cha được mời đi ăn cơm tối, trên đường ngài bị một nhát búa rìu giáng trên đầu nên chết lập tức. Ðược tin, anh Lâm Ðiền đang đêm đi tìm xác cha, cũng lãnh một nhát búa rìu kết thúc cuộc đời. Cả hai vị đều đuợc Giáo Hội mừng kính cùng với các thánh Tử Ðạo Bắc Mỹ.

Nơi cha An Sanh Giang trong chuyến thăm quê hương, ta thấy thấp thoáng hình ảnh chính Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem như được mô tả trong Tin Mừng hôm nay (Mt 21,1-11).

Tác giả Mátthêu cho thấy Ðức Giêsu vào thành từ phía Ðông, tức phía Vườn Dầu, liên quan tới lời sấm về "ngày của Chúa" trong Dacaria 14,4. Biến cố Ðức Giêsu vào thành là để thể hiện Is 62,11 và Dcr 9,9. Câu "Hãy nói với thiếu nữ Sion" (Is 62,11) được ứng nghiệm nơi c.8 trong Tin Mừng hôm nay, cho thấy đám đông đón rước Ðức Giêsu như con cháu vua Ðavít theo Tv.118,25-26.

Cả thành đều chú ý và nhìn nhận Ðức Giêsu là vị ngôn sứ từ Galilê (Mt 21,10-11). Nhưng Dcr 9,9 cho thấy Ðức Giêsu vào thành cách khiêm hạ trên lưng lừa. Chính về đức khiêm nhường ta thấy cha An Sanh Giang đã nên giống Ðức Giêsu. Và cha đã nên giống Người cho tới nỗi chết vì những kẻ cha rất yêu mến là các dân tộc ít người tại Bắc Mỹ.

 

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn tâm đắc gì về: việc cha An Sanh Giang ước ao trước tiên là được dự thánh lễ Sinh Nhật?  Việc cha quì gối xưng tội trước khi dự lễ?  Việc mọi người tò mò về những ngón tay bị mất móng hoặc bị cắt cụt?  Nhất là về cái chết tử đạo của cha?

2. Bạn hiểu gì về lời Ðức Giêsu dạy ta là "Hãy học cùng Thầy ở khiêm nhường và hiền lành thực trong lòng" ?  Lời đó có áp dụng với bạn chăng?  Bằng cách nào?

 


Back to Home Page