GOSPELNET
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CHÚA NHẬT 25 A THƯỜNG NIÊN

TIN MỪNG: Mt 20, 1 - 16 a:

DỤ NGÔN THỠ LÀM VƯỜN NHO

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông lại trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !"

Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót đến những người vào làm trước nhất." Vậy mấy người mới vào làm lúc mười một giờ tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." Ông chủ trả lời cho một người trong họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?"

Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống chót.

SUY NIỆM 1:

LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA

                Báo Người Lao Ðộng số 23.1993 có đăng bài: "Chợ Người Hà Nội"

"Người Hà nội bấy lâu nay đua nhau xây nhà, nếu thiếu nhân công lặt vặt là có thể ra ngay chợ người mua sức lao động. Ðội quân từ các tỉnh về Hà nội thường xuyên có đến hai ba chục ngàn người. Rỗi việc nhà nông, ở quê không có người phụ... không việc làm, họ ra Hà nội, tụ tập nhiều nhất là dọc đường đôi Giảng võ, trục đường dài theo đê Ðại la, xuống Láng... đến chợ Mộc... công việc có nhiều giá, việc lặt vặt như dọn đất đá, khuân gạch tô vôi, quét vôi lóc, thì khoán từ A đến Z, hoặc là cơm chủ hai bữa cộng tiền công ba, bốn ngàn, hoặc là tự lo bữa ăn... thì 5, 6 ngàn một ngày. Tiền công như vậy là rẻ mạt. Cũng đành vậy thôi. họ chỉ có đôi tay. Và còn hơn là không có việc. Người thuê cũng có ít. vì ngại, vì sợ người làm công quen cửa quen nhà mình rồi, làm xong biết đâu người ta "xin đểu", "trộm cắp, nhờ vả". . . rách việc thêm !"

Báo Tuổi Trẻ ngày 4.4.1996 có đăng bài: "Chợ Người ở Ðịnh Quán":

"Nếu như ở Hà nội, dòng người xuất phát từ nông thôn đổ xô về thành thị "nhóm chợ" tìm việc làm thì tại Ðịnh Quán ( Ðồng Nai ), một khu chợ mới đã hình thành trên quốc lộ 20 với những đặc trưng của nó. Ðó là những người lao động hình thành từ những làn sóng "di dân tự do" it đất, không có tư liệu sản xuất, đành phải bán sức lao động kiếm sống... vùng này là vùng có nhiều đất có nhiều đá lộ đầu nên việc dùng cơ giới trong nông nghiệp bị hạn chế. Do đó nhu cầu về lao động rất cao. Từ tháng tư đến tháng mười hai, thời gian diễn ra vụ trồng, ngày ngày có hàng trăm lao động tụ tập ở "chợ" chờ đợi; những ngày cao điểm, vào vụ lên đến bốn, năm trăm người. Những chiếc xe cải tiến, xe máy xới chạy ì ạch, chở đầy những lao động từ "chợ người" đi về các vườn, rẫy. Mỗi lao động được từ 15.000 - 20.000 đồng một ngày. Những ngày cao điểm có thể đến 30.000 - 40.000 đồng. Hôm sau, mờ mờ sáng chợ lại đông."

"Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông..." Giữa một "chợ người" thời Chúa Giê-su ở đất nước Do-thái, tương tự như "Chợ người Hà nội" hay "Chợ người Ðịnh Quán" bây giờ, một xã hội ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.

Ðức Giê-su đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do-thái để mặc khải mầu nhiệm Nước Trời. Dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận như một ngày công lao động 15.000 - 20.000 đồng. Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do-thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều: 3 giờ là 9 giờ sáng; 6 giờ là 12 giờ trưa; 9 giờ là 3 giờ chiều; 11 giờ là 5 giờ chiều...

Theo lệ thường công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 11 giờ, ông chủ còn ra thuê thì những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng, những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Ðịa Trung Hải. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn, nên sự thành công của ai đó đã trở thành nổi đe dọa, ghen tức.

Vậy thì ông chủ có bất công không ? Không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính Ông chủ trả lời: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao. Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao. Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức."

Ðây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông ta tốt lành. Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém, nhưng còn muốn ai cũng may mắn, có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình, đồng bạc ấy là do lòng tốt. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày.

Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thục thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pha-ri-sêu, Luật Sĩ, họ ghen tương vì Chúa Giê-su đối xử khoan dung với người tội lỗi, với dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.

"Một đồng" ở đây chính là chiếc vé vào Nước Trời, kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Ðức Giê-su nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng, Ðấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người, đặc biệt đối với dân ngoại, những người được gọi vào Giáo Hội qua những giờ sau hết. Ðối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do-thái là những kẻ được gọi từ đầu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Không ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn; hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau, người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, ông này hay bà nọ, mà hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ?

Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giê-su đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo Hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo Hội mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa thương xót. Ðã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình. Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Ðồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Ki-tô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.

Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN

 

SUY NIỆM 2:

CÔNG BẰNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Năm 1980, Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II công bố một Thông Ðiệp mang tên: "THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT". Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa.

Chẳng hạn: "...Không phải vô cớ mà Ðức Ki-tô đã trách những kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà giữ cái thái độ được bày tỏ trong những lời này: "Mắt thế mắt, răng đền răng" ( Mt 5, 38 ). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và  các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất những quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dẫn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này" ( Dives in Misericordia - số 12 ).

Ðọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Những người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như những người làm vườn nho trách ông chủ là đúng ?

 Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban Ơn Cứu Rỗi cho mọi người. Ơn Cứu Rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người giữ Ðạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Ki-tô thực hiện mà thôi. Như vậy có phải Thiên Chúa bất công ? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: "Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng" đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo ? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không ?

Bài đọc một trích sách Ngôn Sứ I-sai-a trả lời rất rõ: "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta". Rất đúng ! Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vẫn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh quẫn trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.

Công bằng mà những người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót. Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ ? Là Ki-tô hữu, điểm quy chiếu cho ta vẫn phải là Lời Chúa: "Ðường lối các ngươi không phải đường lối của Ta".

Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ. Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con nbgười phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng với tội của họ là xong. Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Ðể cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể.

Chúa Ki-tô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho những đứa con phản nghịch. Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vẫn cứ là tội, vẫn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ. Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vẫn có một giá trị lớn lao,  cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống Ðức Tin của họ. Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!

Nước Trời là vậy đó. Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Ki-tô thực hiện. Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải "ăn miếng trả miếng".

Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn. Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp. Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.

Lm. JB. NGUYỄN MINH HÙNG

CHỨNG TỪ:

TÌNH YÊU VƯỠT XA SỰ CÔNG BẰNG

Bernadette, cô bé chăn cừu ở Lộ-đức ( Lourdes ), đã phải nhờ đến vị Giám Mục sở tại thương tình can thiệp, vận động và bảo lãnh cho, mãi rồi cô mới được nhận vào một tu viện. Lý do chẳng phải vì Bernadette không có của hồi môn cần thiết để dâng cho Nhà Dòng theo thói tục ở nước Pháp thời ấy, nhưng tất cả chỉ là vì cô đã được... Ðức Mẹ hiện ra với mình !

Giới nữ tu thượng lưu quý tộc dạo ấy không thể nào chấp nhận nổi việc Ðức Mẹ lại đi chọn một cô bé nghèo nàn, quê mùa, không những mù chữ lại mù cả kinh bổn Giáo Lý, để làm người nói thay sứ điệp của Mẹ cho mọi người ! Chưa hết, lọt được vào Dòng Tu rồi, chị Bernadette lại phải sống những năm dài... tử vì đạo cho mãi đến khi nhắm mắt lìa đời. Các bề trên đã thi nhau, tiếp nối nhau mà trù dập người nữ tu trẻ và hết sức khiêm tốn ấy, nhằm mục đích rất tốt lành, đó là để Bernadette khỏi cậy mình được Ðức Mẹ hiện ra mà sinh lòng kiêu ngạo ! Thật là ngược đời !

Câu chuyện này gợi cho chúng ta nhớ đến những sự ngược đời mà Ðức Giê-su đã kể trong dụ ngôn Thợ Làm Vườn Nho ( Mt 20, 1 - 16 ). Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi những ai muốn bảo vệ quyền lợi xã hội, bởi nó đã chống lại cái về công bằng làm bao nhiêu thì phải được hưởng bấy nhiêu cho tương xứng ! Làm sao mà không căm ghét cái ông chủ đã ngang nhiên trả cùng một số tiền công cho những kẻ chỉ làm có một giờ ngay trước mũi những người thợ đã làm lụng chăm chỉ suốt từ sáng đến xập tối ? Tự nhiên là chúng ta ủng hộ những kẻ mong được trả nhiều hơn đang lẩm bẩm kêu ca ấy !

Thế nhưng, dụ ngôn này lại không có ý dạy chúng ta một cung cách hành xử trong đời thường. Ðức Giê-su chỉ muốn nhắc khéo các ông Pha-ri-sêu và Luật Sĩ đang phẫn nộ trước thái độ quan tâm ưu ái của Ðức Giê-su đối với giới thu thuế và hạng đĩ điếm, vốn bị dán nhãn chung là phường tội lỗi đáng khinh !

Dụ ngôn Thợ Làm Vườn Nho đã mặc khải rất sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, một lòng yêu thương cao cả, không tính toán sòng phẳng theo kiểu người đời. Thiên Chúa muốn ban tặng Tin Mừng cho tất cả, muốn mở cho tất cả, chẳng trừ ai, được bước vào Sự Sống Ðời Ðời. Cái ngược đời của Tin Mừng, của chính Ðức Giê-su, tắt một lời, chỉ muốn khẳng định: Tình yêu vượt xa cả lẽ công bình !

Theo BẠN ÐƯỜNG

SUY NIỆM 3:

CÔNG BÌNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ

1. Công bình trần gian: "Ăn đồng chia đều"

Công bình là ngay thẳng không thiên lệch. Ðó là lý tưởng mà mọi thể chế của con người đều mong muốn đạt đến. Thông thường, nói đến công bình, người ta hay nghĩ đến việc cân, đo, đong, đếm, phân chia cho đồng đều về mọi thứ: công danh, tài sản, tiền bạc, thời giờ... chia sẻ thành công cũng như  thất bại. Nói thì dễ, nhưng làm mới thực sự khó, vì ở nơi sâu kín của mỗi con người đã có sẵn  túi tham, luôn muốn cho mình trội hơn người khác. Một ông chủ có lương tâm thường trả lương nhiều hay ít tuỳ theo sức lực và thời giờ người làm công bỏ ra cho công việc, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. "Tiền nào của nấy". Ðó là công bằng thường tình như người ta vẫn quan niệm.

Trong câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay, những người thợ làm vườn nho đến từ sáng sớm đã cằn nhằn trách gia chủ vì thấy ông trả lương cho họ ngang bằng những người đến sau, không có tay nghề, lại làm ít giờ hơn, thậm chí có người chỉ làm có một giờ. Chắc hẳn họ không quên giao kèo giữa họ với gia chủ: một quan tiền một ngày, nhưng họ không thể chịu được khi thấy người khác được lợi hơn mình. Nhìn vào xã hội hôm nay sự giàu có càng ngày càng tập trung vào một số ít người và đẩy số người nghèo lên gấp bội. Họ là nạn nhân của những bất công, và phân biệt đối xử. Công bình mà thôi chưa đủ, cần phải có lòng bác ái nữa. Chính vì thế Ðức Giê-su đã đứng về phía người nghèo khó để bênh đỡ họ.

2. Công bình của Thiên Chúa: Công bình của lòng thương xót và ơn tha thứ

Thiên Chúa là Ðấng Chí Thánh, Ngài chê ghét tội lỗi vì tội lỗi là điều nghịch với bản tính của Ngài. Theo lẽ công bình, Ngài ra tay trừng phạt tội nhân, nhưng vì tình thương, Ngài sẵn sàng tha thứ: "Ngài đại lượng và chan chứa tình thương, Ngài không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta... Nếu Chúa chấp các tội. Chúa ôi ! Ai sống nổi" Lời kinh trên được hát trong thánh lễ cầu hồn nói lên lòng tin tưởng của các tín hữu vào lòng thương xót bao la của Chúa đối với tội nhân.

Lòng yêu thương đó đã được biểu lộ qua hình ảnh ông chủ vườn nho tốt lành của bài Tin Mừng hôm nay. Ngay từ sáng sớm, ông đã ra mướn thợ vào làm vườn nho. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn. Khoảng giờ thứ ba, rồi giờ thứ sáu, giờ thứ chín, và sau cùng giờ thứ mười một ông vẫn tiếp tục ra và lần nào ông cũng thấy có người ở không. Ông băn khoăn lo lắng cho cho tình trạng thất nghiệp của họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?" và không cần hỏi han đến trình độ, khả năng tay nghề, ông đều bảo họ vào vườn nho và hứa sẽ trả cho họ hợp lẽ công bằng. Ðến lúc trả tiền mới lạ: Ông trả công bắt đầu từ người làm sau chót đến những người trước hết. Và điều gây ngạc nhiên hơn cả là mỗi người đều được lãnh một quan tiền như nhau. Thật là một lối hành xử lạ đời. Xưa nay chưa từng nghe thấy một ông chủ nào đã làm như thế.

Qua dụ ngôn trên, Ðức Giê-su muốn giới thiệu cho chúng ta đức công bình như Chúa muốn, công bình không đơn độc, nhưng luôn đi kèm với lòng thương xót và tha thứ để cho mọi người không phân biệt được sống đúng với phẩm tước là con cùng một Cha trên Trời. Người Cha sao đành lòng nhìn thấy trong đoàn con của mình còn có những người sống bất hạnh. Chắc chắn Ngài sẽ quan tâm cách đặc biệt đối với những người con này.

3. Từ ba bài Thánh Kinh hôm nay, chúng ta có thể rút ra những bài học sau đây:

a) Như những người thất nghiệp được gia chủ mời vào làm vườn nho và trả công hậu hỹ, chúng ta cũng được Chúa mời gọi tham gia vào công việc mở rộng Nước Chúa. Ðó thực là vinh dự của chúng ta và là dịp để Ngài ban ơn phúc cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải biết cảm tạ ơn Ngài. Kế đến chúng ta phải có thái độ khiêm tốn mà tự nhủ "tôi chỉ  là đầy tớ vô ích" sau khi hoàn thành công việc được giao.

b) Hãy để cho Chúa tự do hoạt động trong ta và hãy trở nên những dụng cụ ngoan ngoãn trong bàn tay của Ngài như lời Thánh Phao-lô dạy: "Ðức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết" ( Pl 1, 20 ). Càng để cho Chúa hoạt động nơi ta và qua ta, công việc nên thánh cũng như truyền giáo của chúng ta càng có kết quả. Thánh Phao-lô còn khuyên: "...Anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Ðức Ki-tô" ( Pl 1, 27 ). Ăn ở xứng với Tin Mừng của Ki-tô là chúng ta có những tâm tình, lời nói và hành động giống như Chúa.

c) Ðường lối Chúa, con người không thể hiểu thấu: "Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy." Vì thế, chúng ta phải nỗ lực tìm hiểu và tập sống  theo tư tưởng của Thiên Chúa, chứ không nên bám víu vào cách suy nghĩ hạn hẹp của mình.

d) "Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống chót""Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" Chúng ta chẳng có lý do gì mà ghen tỵ với ngưới khác hay với cách Thiên Chúa hành xử. Tốt nhất chúng ta cứ  vui vẻ chấp nhận phần mà Chúa đã ban cho mình và biết ơn Ngài !

Gs. Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI

TƯỞNG NHỚ:

ÐỨC HỒNG Y PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê NGUYỄN VĂN THUẬN

Ðức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận sinh ra tại Phú Cam, thuộc Tổng Giáo Phận Huế, tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam, ngày 17 tháng 4 năm 1928. Gia đình ngài có 8 anh chị em: 3 trai và 5 gái, mà Ngài là con cả. Ông bà cụ cố thân sinh của ngài là Cụ Nguyễn Văn Ấm, qua đời ngày 3 tháng 7 năm 1993 tại Sydney, Australia, và cụ bà Ê-li-sa-bét Ngô Ðình Thị Hiệp. Bà là con gái của cụ Ngô Ðình Khả. Bà cụ cố hiện đang sống tại Sydney, Australia với người con gái An-na Hàm Tiếu và thọ trên 100 tuổi.

Ðức Hồng Y Thuận thuộc một gia đình có truyền thống Công Giáo lâu đời và tổ tiên từng bị bách hại vì đạo từ năm 1698. Từ còn nhỏ, cậu Thuận được giáo dục trong một gia đình đạo đức và do bà mẹ Ê-li-sa-bét gương mẫu thánh thiện. Bà lo giáo dục cậu khi còn nhỏ, mỗi tối bà dạy con những truỵện Kinh Thánh, kể cho cậu nghe lịch sử các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, nhất là về tổ tiên của dòng tộc, giới thiệu cho cậu gương Thánh Nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su; dạy con biết yêu thương và tha thứ cho mọi người; bà cũng dạy cậu hết lòng yêu mến Tổ Quốc Việt Nam.

Khi lớn lên cậu Thuận nhập Tiểu Chủng Viện An Ninh và sau đó theo học triết học và thần học tại Ðại Chủng Viện Kim Long, Huế. Thầy Thuận lãnh chức Linh Mục ngày 11 tháng 6 năm 1953. Sau khi chịu chức Linh Mục, cha Thuận được cử đi làm Phó Xứ Họ Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, Huế, lúc đó cha Sở là Cha Darbon, quen gọi là cố Triết. Năm 1956, ngài được gửi sang theo học Phân Khoa Giáo Luật thuộc Ðại Học Giáo Hoàng Urbaniana, tại Rô-ma của Bộ Truyền Giáo từ năm 1956 - 1959, và đã đậu tiến sĩ Giáo Luật năm 1959, với kết quả "maxima cum laude" với đề tài: "Tuyên úy quân đội trên thế giới". Khi học tại Rô-ma, cha Thuận đã được cùng Ðức Cha Phê-rô Ma-ri-a Ngô Ðình Thục ( Giám Mục Vĩnh Long ) là cậu ruột vào triều yết Ðức Thánh Cha Pi-ô XII.

Khi về nước, cha Thuận được cử làm giáo sư, rồi năm 1962 được cử làm Giám Ðốc Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện từ năm 1959 - 1967 và làm Tổng Ðại Diện Tổng Giáo Phận Huế từ năm 1964 - 1967. Ngày 13 tháng 4 năêm 1967, cha Thuận được Ðức Thánh Cha Phao-lô VI bổ nhiệm làm Giám Mục Việt Nam tiên khởi Giáo Phận Nha Trang thay thế Ðức Cha Paul Raymond Piquet Lợi, M.E.P. ( Ðức Cha Lợi, làm Giám Mục Nha Trang từ 1957 - 1967 ). Lễ truyền chức Giám Mục được cử hành vào ngày 24 tháng 6 năm 1967, lễ Thánh Gio-an Tẩy Giả, tại Huế, do Ðức Cha Angelo Palmas, Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam Lào và Campuchia, chủ phong. Khẩu hiệu của Ðức Tân Giám Mục là "Vui Mừng và Hy vọng" ( Gaudium et Spes ), tên của Hiến Chế Mục Vụ của Công Ðồng Chung Va-ti-ca-nô II.

Ngày 10 tháng 7 năm 1967, Ðức Cha Thuận đã về nhận Giáo Phận Nha Trang. Trong 8 năm làm Giám Mục, Ðức Cha đã làm hết sức để phát triển Giáo Phận Nha Trang, trước khi thời gian khốn khó xảy đến ( xc. Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá, tr. 26 ).

Trọng tâm hoạt động của ngài là huấn luyện nhân sự, gia tăng Ðại Chủng Sinh từ 42 đến 147; số Tiểu Chủng Sinh từ 200 đến 500 trong 4 Chủng Viện; tổ chức các khóa tu nghiệp cho các Linh Mục trong 6 Giáo Phận nằm trong 6 tỉnh Miền Trung Việt Nam; phát triển và huấn luyện các Phong Trào Thanh Niên, Giáo Dân, các Hội Ðoàn Giáo Xứ, Mục Vụ, qua các khóa như Phong Trào Công Lý Và Hòa Bình, Cursillos và Focolare, Hướng Ðạo; thành lập Cộng Ðoàn La Vang, Tu Hội Hy Vọng.

Ðể hướng dẫn cộng đoàn Giáo Phận Nha Trang, Ðức Cha Thuận đã viết 6 thư luân lưu:

1)       Tỉnh thức và cầu nguyện ( 1968 )

2)       Vững mạnh trong Ðức tin, Tiến lên trong An bình ( 1969 )

3)       Công lý và Hòa bình ( 1970 )

4)       Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta ( 1971 )

5)       Kỷ niệm 300 năm ( 1971 )

6)       Năm Thánh Canh tân và Hòa giải ( 1973 ).

Trong khuôn khổ Hội Ðồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam, ngài là Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, rồi Chủ Tịch Ủy Ban Truyền Thông Xã Hội; Chủ Tịch Ủy Ban Phát Triển Việt Nam; đảm trách hoạt động của cớ quan lo cho các người di tản từ các vùng chiến tranh về vùng an toàn. Ngài là một trong những Giám Mục thành lập Ðài Phát Thanh Công Giáo "Chân Lý Á Châu" ( Veritas Asia, Manila ). Ngài đã nhiều lần tham dự các khóa họp của Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu ( F.A.B.C. ). Ngài được chọn làm Cố Vấn Hội Ðồng Tòa Thánh về Giáo Dân từ năm 1971 - 1975. Và trong những lần đi họp Hội Ðồng này, Ngài đã có dịp gặp Ðức Giáo Hoàng đương kim Gio-an Phao-lô II, lúc đó là Tổng Giám Mục của Giáo Phận Cracovia ( Ba-lan ), để học hỏi các kinh nghiệm Mục Vụ trong những giai đoạn khó khăn ở Ba-lan. Ngài cũng được bổ nhiệm làm Cố Vấn, rồi thành viên của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc; thành viên của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích.

Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Ðức Thánh Cha Phao-lô VI đã bổ nhiệm Ngài làm Giám Mục Phó với quyền kế vị Tổng Giáo Phận Sài-gòn, và thăng chức Tổng Giám Mục hiệu tòa Vadesi. Nhưng nhà cầm quyền lúc ấy không chấp nhận cho ngài về Sài-gòn và đã đưa Ngài ra lại Nha Trang. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Lễ Ðức Mẹ Linh Hồn Và Xác Lên Trời, ngài đã bị bắt giải ra Nha Trang, giam ở Cây Vông, sau đó chuyển ra Phú Khánh, vào Thủ Ðức; rồi được đưa ra miền Bắc. Ngài sống trong lao tù 13 năm, trong đó 9 năm biệt giam và quản thúc tại Giang Xá. Trong năm tù thứ nhất 1976, Ngài đã viết cuốn "Ðường hy vọng". Cuốn sách này được Ngài coi là di chúc tinh thần của Ngài gửi tới mọi người Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước.

Sau khi nghe những bài giảng trong đó có những chứng tá về những năm tù ngục của Ðức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận trong Tuần Tĩnh Tâm Mùa Chay của Giáo Triều Rô-ma năm 2000, Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã có cảm nghĩ như sau trong thư gửi cho Ðức Hồng Y, ngày 18.3.2000: "Tôi đã ước mong rằng trong Năm Ðại Toàn Xá này, có một chỗ đặc biệt được dành cho chứng tá của những người đã chịu đau khổ vì Ðức Tin, đã trả bằng máu sự gắn bó của họ đối với Chúa Ki-tô và Giáo Hội, hoặc chịu đựng những năm thật dài cảnh tù ngục và thiếu thốn đủ loại..." ( Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể số 13 – Chứng Nhân Hy Vọng, tr. 8 ).

Ngày 21 tháng 11 năm 1988, Lễ Ðức Mẹ Dâng Mình Trong Ðền Thánh, ngài được trả tự do và được đưa về cư trú tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, nhưng không được phép thi hành công việc Mục Vụ. Sau đó ngài được phép đi thăm ông bà cố tại Sydney, Australia, đi Rô-ma triều yết Ðức Thánh Cha, rồi trở về Hà Nội. Năm 1991 Ngài được phép ra nước ngoài và sau đó không được phép trở về Việt Nam. Từ đây Ngài sống cuộc đời lưu vong, nhưng ngài luôn hiện diện với Giáo Hội tại Việt Nam và quê hương Việt Nam. Ngài luôn lo lắng giúp đỡ các công tác xã hội, như các trại phong cùi, các công tác bác ái từ thiện, các công trình nghiên cứu và phổ biến Văn Hóa Việt Nam và Văn Hóa Công Giáo Việt Nam, việc trùng tu và xây cất các Thánh Ðường, việc huấn luyện các Chủng Sinh và Giáo Dân, theo khả năng ngài có thể. Trước mọi đau khổ và bách hại bản thân và Giáo Hội, ngài luôn sống và rao giảng sự tha thứ và hòa giải.

Trong thời gian ở ngoại quốc, ngài đã được mời đi giảng và thuyết trình ở nhiều nơi và cho nhiều giới khác nhau, như tại Nhà Thờ Chính Tòa Paris trong một Mùa Chay, hoặc nói truyện tại các Ðại Học Công Giáo trên thế giới; tại Mễ-tây-cơ vào tháng 5 năm 1998 cho hơn 50.000 giới trẻ. Ngày 11 tháng 5 năm 1996, ngài lãnh bằng Tiến Sĩ Danh Dự tại Ðại Học Dòng Tên ở New Orleans, LA, Hoa Kỳ. Bộ Truyền Giáo cũng ủy thác cho ngài thi hành các cuộc thăm viếng và kiểm tra các Chủng Viện tại một số nước ở Phi Châu.

Ngài cũng nhận được những huy chương để đề cao cuộc sống chứng tá, hoạt động kiến tạo hòa bình của ngài. Ngày 9 tháng 6 năm 1999, Chính Phủ Pháp đã trao tặng ngài huy chương "Commandeur de l'Ordre National du Mérite" ( tại Tòa Ðại Sứ Pháp bên cạnh Tòa Thánh ). Ngày 12 tháng 12 năm 2000, tại Tòa Thị Chính Rô-ma, Hội "Cùng Nhau Xây Dựng Hòa Bình" đã trao tặng huy chương cho ngài. Tại Torino, ngày 20 tháng 10 năm 2001, ngài lãnh Giải Hòa Bình do tổ chức SERMIG - Hiệp Hội Truyền Giáo Của Giới Trẻ. Sau cùng, ngày 9 tháng 12 năm 2001, Trung tâm Nghiên Cứu G. Donati đã trao tặng ngài Giải Thưởng Hòa Bình năm 2001.

Ngày 24 tháng 11 năm 1994 Ðức Thánh Cha đã bổ nhiệm Ngài làm Phó Chủ tịch Hội Ðồng Tòa Thánh "Công lý và Hòa Bình" và sau đó vào ngày 24 tháng 6 năm 1998, Ngài được bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội Ðồng này, thay thế Ðức Hồng Y Roger Etchegaray, nghỉ hưu. Ngài giữ chức vụ Chủ Tịch cho tới ngày nay.

Sau thời gian bị cầm tù, Ngài đã bị giải phẫu 7 lần, trong đó có ba lần suýt chết vì nhiễm trùng. Lần giải phẫu áp chót vào ngày 17 tháng 4 năm 2001 tại một bệnh viện ở Boston, Hoa Kỳ và cuộc giải phẫu cuối cùng vào ngày 8 tháng 5 năm 2002 tại Trung Tâm Nghiên Cứu Về Ung Thư, Milano ( Bắc Italia ). Ngài trở bệnh nặng từ đầu tháng 6 năm 2002 và được đưa vào cấp cứu tại Bệnh Viện Agostino Gemelli thuộc Ðại Học Công Giáo Thánh Tâm, Rô-ma. Sau đó được đưa về Bệnh Viện Pi-ô XI để tiếp tục điều trị.

Ðặc biệt Mùa Chay năm 2000, ngài được Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II mời giảng cấm phòng Mùa Chay cho các viên chức tại Giáo Triều Rô-ma, bắt đầu thiên niên kỷ thứ III. Ðức Thánh Cha nói với Ðức Hồng Y Thuận: "Năm đầu tiên của Ngàn Năm thứ ba, một người Việt Nam sẽ giảng Tuần Tĩnh Tâm cho Giáo Triều Rô-ma". Rồi Ðức Thánh Cha nói tiếp: "Hãy kể lại cho chúng tôi những chứng tá của Ðức Cha".

Trong dịp này, sau khi được Ðức Thánh Cha tiếp riêng và tặng một chén Lễ, Ðức Hồng Y Thuận đã nói như sau: "Cách đây 24 năm, khi cử hành Thánh Lễ với 3 giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi không bao giờ tưởng tượng, ngày hôm nay Ðức Thánh Cha tặng tôi một chén lễ mạ vàng... Thiên Chúa thật cao cả và Tình Thương của Ngài cũng cao cả" ( Chứng Nhân Hy Vọng, tr. 12.13 ).

Ngày 21 tháng 2 năm 2001 trong cuộc họp Mật Viện các Hồng Y, Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã trao mũ Hồng Y cho ngài và đặt ngài làm Hồng Y Phó Tế, Hiệu Tòa Nhà Thờ Santa Maria della Scala ( Ðức Mẹ tại các bậc thang ). Nhà Thờ này do các Cha Dòng Ðức Mẹ Núi Carmelo coi sóc, nằm tại vùng Trastevere, Rô-ma.

Ngài qua đời lúc 18 giờ ngày 16 tháng 9 năm 2002 tại Rô-ma.

Văn Phòng Phối Kết Tông Ðồ Mục Vụ Việt Nam Hải Ngoại 16.9.2002

THÔNG TIN:

CÁC KHOẢN TIỀN ÂN NHÂN MỚI CHIA SẺ

- Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm ( qua một Linh Mục ) giúp người nghèo ...................................................  500.000 VND

- Một Linh Mục ẩn danh ( Sài-gòn ) giúp học bổng các em nghèo ......................................................................  500.000 VND

- Ông bà Bùi Văn Trung ( Sài-gòn ) ủng hộ lồng đèn và nến cho các em nghèo vui Trung Thu ..............................................  145.000 VND

- Ông bà Trần Mạnh Hùng ( Hoa Kỳ ) giúp học bổng các em nghèo ...........................................................................  500 USD

- Anh chị Sơn - Thủy ( Hoa Kỳ ) giúp học bổng các em nghèo ..............................................................................  300.000 VND

- Anh chị Minh - Phượng ( Sài-gòn ) giúp cặp đi học cho các em nghèo học giỏi ............................................  110.000 VND

- Ông bà Trung ( Hoa Kỳ ) giúp học bổng các em nghèo ....................................................................................  3.500.000 VND

- Bác sĩ Bích Ðào ( Pháp ) giúp áo trắng cho trẻ em nghèo đi học ....................................................................  1.500.000 VND

CÁC KHOẢN TIỀN TRỠ GIÚP CÁC NƠI

- Trợ giúp một em sinh viên nghèo thêm tiền đóng Ký Túc Xá đầu năm học .................................................  100.000 VND

- Trợ giúp một em học sinh nghèo đọc học phí đầu năm học ..................................................................................  50.000 VND

- Trợ giúp 2 bệnh nhân nghèo tiền mua thuốc ............................................................................................................  50.000 VND

- Trợ giúp 1 người khiếm thị tiền vốn bán vé số ........................................................................................................  50.000 VND

QUÀ TRUNG THU ÐẦU NĂM HỌC CHO CÁC EM HỌC SINH NGHÈO

Gospelnet xin chuyển đến Sr. Nguyễn Thị Ðức, Dòng Nữ Vương Hòa Bình, số quà gồm 200 cuốn vở 100 trang, 100 chiếc cặp cấp 1 và 200 chiếc áo chemise trắng độ tuổi cấp 1 và 2 ( trị giá tổng cộng: 2.900.000 VND ), gửi tặng các em học sinh người dân tộc Ê-đê tại Giáo Xứ Nam Thiên, thôn 3, xã Hòa Thuận, Ban Mê Thuật.

Gospelnet xin góp với bạn Hoa Xuân Vinh và anh chị em Nhóm Sinh Viên, số quà gồm 250 cuốn vở 100 trang, 100 chiếc cặp cấp 1, 10 chiếc cặp cấp 1, 300 lồng đèn xếp và 600 cây nến nhỏ ( trị giá tổng cộng: 1.300.000 VND ), gửi tặng các em học sinh nghèo Giáo Xứ Mỹ Hảo, tỉnh Bình Dương, Giáo Phận Phú Cường.

Gospelnet xin góp với cha Mai Văn Hiền, DCCT, và anh chị em Xóm 5, Giáo Xứ ÐMHCG, Sài-gòn, số quà gồm 200 cuốn vở 100 trang, 200 lồng đèn xếp và 400 cây nến nhỏ ( trị giá tổng cộng: 420.000 VND ), gửi tặng các em học sinh nghèo Lớp Tình Thương khu Kinh Tế Mới Lê Minh Xuân.

Gospelnet xin góp với Nhóm các Bà Mẹ Công Giáo và các bạn trẻ, số quà 10 Kg bánh ( trị giá tổng cộng: 250.000 VND ), gửi tặng các em thiếu nhi Giáo Xứ Cù Mi, Hàm Tân, Bình Thuận, Giáo Phận Phan Thiết.

Gospelnet xin góp với cha Phạm Thanh Quang, DCCT, và các bạn trẻ Xóm 7, Giáo Xứ ÐMHCG Sài-gòn, số quà gồm 100 kim chích nha khoa, 200 ống thuốc tê ( một ân nhân tặng ) để tổ chức nhổ răng miễn phí và 800 cuốn vở 100 trang ( trị giá tổng cộng: 1.100.000 VND ), gửi tặng các em học sinh dân tộc Kơ Ho, buôn Lộc Tân, Bảo Lộc, tỉnh Lâm Ðồng, Giáo Phận Ðà Lạt.

TRỠ GIÚP CHO MỘT EM DỰ TU Ở HỐ NAI

Sr. Lê Thị Hiến, Dòng Nô Tỳ Thánh Thể, giới thiệu trường hợp em LÊ THỊ XUÂN đang là dự tu Dòng Mến Thánh Giá Phúc Hải, Hố Nai 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai. Nhà Dòng đã giúp một nửa tiền chi phí hàng tháng, nhưng gia đình em quá nghèo, vẫn không đủ tiền để đóng một nửa còn lại ( 100.000 VND ). Năm ngoái gia đình em đã phải đi vay trả lãi, đến nay vẫn chưa trả hết nợ. Gospelnet xin trợ giúp 2 tháng cho em, tổng cộng: 200.000 VND.

XE LẮC TAY CHO MỘT NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Thầy Phạm Công Thuận, DCCT giới thiệu trường hợp chị UNG THỊ PHÁT LỠI, sinh 1969, bị liệt hai chân, hiện ngụ tại số 49 / 2 đường Vườn Chuối, phường 4, quận 3 Sài-gòn, để thay thế cho chiếc xe lắc tự chế đã quá cũ, quá vất vả khi sử dụng. Gospelnet xin trợ giúp một chiếc xe lắc mới trị giá 1.300.000 VND.

HỌC BỔNG CHO 55 EM HỌC SINH Ở NGHỆ AN

Cha Ðinh Công Ðoàn, Giáo Xứ Kẻ Dừa, Nghệ An, Giáo Phận Vinh, đã giới thiệu danh sách đợt 1 gồm 25 em học sinh có hoàn cảnh rất nghèo ở Nghệ An. Gospelnet đã trợ giúp được trong tháng 5.2002 với số tiền tổng cộng: 1.250.000 VND, nay với danh sách mới đợt 2 gồm 30 em, chúng tôi xin gộp chung thành một danh sách trong chương trình mang tên "HỌC BỔNG KẺ DỪA" gồm tất cả 55 em và trước mắt chỉ trợ giúp được cho tháng 9.2002 với số tiền tổng cộng: 2.750.000 VND. Rất mong được quý độc giả và ân nhân gần xa nhận trợ giúp cho chương trình này.

01.    Phê-rô PHẠM VĂN VƯỠNG, lên lớp 12 trường PTTH Bắc Yên Thành.

02.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ THÁI, lên lớp 12 trường PTTH Lê Doãn Nhã, Yên Thành.

03.    Phê-rô NGUYỄN VĂN NHÀN, lên lớp 12 trường PTTH Lê Doãn Nhã, Yên Thành.

04.    Phê-rô NGUYỄN VĂN TRUYỀN, lên lớp 11 trường PTTH Trần Ðình Phong, Yên Thành.

05.    Phê-rô NGUYỄN VĂN THUẬN, lên lớp 11 trường PTTH Trần Ðình Phong, Yên Thành.

06.    An-tôn NGUYỄN QUỐC HƯNG, lên lớp 11 trường PTTH Trần Ðình Phong, Yên Thành.

07.    Phê-rô PHẠM VĂN THƯƠNG, lên lớp 10 trường PTTH Thọ Thành.

08.    Phê-rô PHẠM VĂN NGUYÊN, lên lớp 10 trường PTTH Thọ Thành.

09.    Tê-rê-xa ÐINH THỊ LỠI, lên lớp 10 trường PTTH Thọ Thành.

10.    Phê-rô NGUYỄN VĂN PHÙNG, lên lớp 9 trường THCS Thọ Thành.

11.    Giu-se ÐINH NGỌC PHƯỚC, lên lớp 8 trường THCS Thọ Thành.

12.    Phê-rô NGUYỄN VĂN NGHIÊM, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành.

13.    Ma-ri-a TẠ THỊ HOÀ, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành.

14.    Phê-rô TẠ THỊ HỒNG, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành.

15.    Phê-rô NGUYỄN VĂN THĂNG, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành.

16.    Phê-rô NGUYỄN VĂN ÐẠT, lên lớp 6 trường THCS Thọ Thành.

17.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ MAI, lên lớp 6 trường THCS Thọ Thành.

18.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ THỨC, lên lớp 6 trường THCS Thọ Thành.

19.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ HUỆ, lên lớp 6 trường THCS Thọ Thành.

20.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ HOÀN, lên lớp 5 trường Tiểu Học Thọ Thành.

21.    Phê-rô PHẠM VĂN LỆ, lên lớp 4 trường Tiểu Học Thọ Thành.

22.    Phê-rô TẠ VĂN SINH, lên lớp 4 trường Tiểu Học Thọ Thành.

23.    Phê-rô TRẦN ÐÌNH HÙNG, lên lớp 3 Tiểu Học Thọ Thành.

24.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ CÔNG, lên lớp 3 trường Tiểu Học Thọ Thành.

25.    Phê-rô NGUYỄN VĂN ÐÀM, lên lớp 3 trường Tiểu Học Thọ Thành.

26.    Phê-rô HỒ VĂN TUẤN, lên lớp 12 trong PTTH Bắc Yên Thành.

27.    Phê-rô NGUYỄN VĂN LONG, lên lớp 10 trường PTTH Bắc Yên Thành.

28.    Phê-rô TRẦN ÐÌNH NHƯ, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành, Yên Thành.

29.    Phê-rô BÙI VĂN KHANH, lên lớp 7 trường THCS Thọ Thành, Yên Thành.

30.    Phê-rô TRẦN VĂN PHÚC, lên lớp 8 trường THCS Thọ Thành, Yên Thành.

31.    Giu-se LÊ VĂN KHIẾT, lên lớp 11 trường PTTH Phan Ðăng Lưu, Yên Thành.

32.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ VIÊN, lên lớp 9 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

33.    Ma-ri-a LÊ THỊ LỘC, lên lớp 6 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

34.    Giu-se LÊ VĂN THÔNG, lên lớp 5 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

35.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê HÀ DANH DIỆM, lên lớp 12 trường PTTH Bắc Yên Thành.

36.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê ÐINH TRỌNG VIÊN, lên lớp 12 trường PTTH Bắc Yên Thành.

37.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê ÐINH TRỌNG PHI, lên lớp 12 trường PTTH Bắc Yên Thành.

38.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê HÀ DANH KHOÁI, lên lớp 11 trường PTTH Phan Ðăng Lưu, Yên Thành.

39.    Ma-ri-a ÐINH THỊ PHƯỠNG, lên lớp 9 trường THCS Lăng Thành, Yên Thành.

40.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê NGÔ TIẾN CẢNH, lên lớp 9 trường THCS Lăng Thành, Yên Thành.

41.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê TRẦN ÐÌNH KỶ, lên lớp 7 trường THCS Mã Thành, Yên Thành.

42.    An-na TRẦN THỊ NHUNG, lên lớp 8 trường THCS Mã Thành, Yên Thành.

43.    Phan-xi-cô Xa-vi-ê PHAN VĂN MINH, lên lớp 11 trường PTTH Phan Ðăng Lưu, Yên Thành.

44.    Gio-an Bao-ti-xi-ta NGUYỄN QUANG NHẬT, lên lớp 4 trường Tiểu Học Phú Thành, Yên Thành.

45.    Gio-an Bao-ti-xi-ta LÊ VĂN TOÀN, lên lớp 6 trường THCS Phú Thành, Yên Thành.

46.    Gio-an Bao-ti-xi-ta TRẦN QUỐC PHÒNG, lên lớp 3 trường Tiểu Học Thọ Thành.

47.    An-na VƯƠNG THỊ BẢY, lên lớp 4 trường Tiểu Học Hồng Thành, Yên Thành.

48.    Lu-y VƯƠNG VĂN THẮM, lên lớp 4 trường Tiểu Học Hồng Thành, Yên Thành.

49.    An-na HÀ THỊ QUYẾN, lên lớp 8 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

50.    Giu-se ÐINH TRỌNG THUỶ, lên lớp 9 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

51.    Giu-se LÊ VĂN VŨ, lên lớp 8 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

52.    Ma-ri-a CUNG THỊ THẾ, lên lớp 7 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

53.    Giu-se CUNG ÐÌNH CƯỜNG, lên lớp 5 trường THCS Hồng Thành, Yên Thành.

54.    Ma-ri-a NGUYỄN THỊ TÂM, lên lớp 4 trường Tiểu Học Thọ Thành.

55.    Phê-rô NGUYỄN VĂN HƯỜNG, lên lớp 4 trường Tiểu Học Thọ Thành.

CHÁU HÀ LÊ MỸ TIÊN ÐÃ ÐƯỠC MỔ TIM THÀNH CÔNG

Như Gospelnet số 12 ra ngày 6.10.2001, và sau đó các số 24, 31 và 35 đã thông tin về một trường hợp  do cha Hồ Quang Tâm và cha Ðỗ Minh Trí, DCCT, giới thiệu cháu bé tên là Ma-ri-a HÀ LÊ MỸ TIÊN, sinh ngày 27.11.2000, cha là Phê-rô Hà Văn Ðào, sinh năm 1967, mẹ là Ma-ri-a Lê Thị Bích Trang, sinh năm 1973, hiệân cư ngụ tại đường 27, xóm Thánh Mẫu, Giáo Xứ Hữu Phước, hạt Bình Giả, Giáo Phận Xuân Lộc, thôn Vinh Sơn, xã Nghĩa Thành, huyện Châu Ðức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Cháu Mỹ Tiên bị bệnh tim bẩm sinh nặng và cao áp phổi. Gospelnet đã mở Quỹ Mổ Tim cho cháu, tiếp nhận số tiền còn lại sau các ca mổ tim thành công cho các cháu Tường Vy và Minh Ngọc, tổng cộng được 870 USD và 3.500.000 VND ( đổi ra được 16.550.000 VND ).

Vì sợ cháu không qua khỏi trong thời gian quá lâu phải chờ đợi để xếp lịch mổ, đến đầu năm 2002, gia đình cháu đã đi "vay nóng" với lãi xuất cao số tiền 10.000.000 VND để đóng chi phí cho Viện Tim. Biết được nỗi ngặt nghèo đó, Gospelnet đã trích quỹ trợ giúp ngay cho gia đình cháu số tiền 10.000.000 VND này. Nay thì cháu đã được Viện Tim mổ thành công tốt đẹp. Gospelnet gửi thêm 550.000 VND để cháu được bồi dưỡng hậu phẫu.

Như vậy, số tiền còn lại là 6.000.000 VND xin chuyển sang cho Quỹ Mổ Tim của cháu LÊ MINH TOÀN ( Ðã thông tin trên Gospelnet số 75 ra ngày 8.9.2002 ).

CHƯƠNG TRÌNH "HỌC BỔNG BẢO LỘC" CHO 6 EM

Thầy Vũ Ðại Dương, cộng đoàn Thiên Phúc, giới thiệu 6 em học sinh nghèo của 3 gia đình ở vùng Kinh Tế Mới thuộc thôn Tân Bình, xã Lộc Thanh, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Ðồng. Gospelnet xin trợ giúp mỗi em 50.000 VND một tháng. Ngày 17.9.2002 đã trợ giúp tháng 9 số tiền: 300.000 VND.

01. VŨ THỊ CÚC, sinh 1991, lên lớp 4

02. VŨ THỊ MIỀN, sinh 1993, lên lớp 3

03. VŨ VĂN ÐỒNG, sinh 1989, lên lớp 4

04. PHẠM THỊ TÂM, sinh 1988, lên lớp 6

05. PHẠM THỊ THẢO, sinh 1991, lên lớp 4

06. VŨ VĂN HIỆN, sinh 1991, lên lớp 4

CHƯƠNG TRÌNH "HỌC BỔNG MAI THẢO"

Thầy Trần Xuân Sang, Dòng Ngôi Lời, giới thiệu hoàn cảnh gia đình ông NGUYỄN VĂN PHƯƠNG, 40 tuổi bà TRẦN THỊ MINH, 38 tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có 6 con đang đi học:

1.       Nguyễn Thị Mai Thảo, sinh năm 1985, lên lớp 12

2.       Nguyễn Thị Aùnh Nguyệt, sinh năm 1987, lên lớp 10

3.       Nguyễn Ðức Hoàng, sinh năm 1990, lên lớp 7

4.       Nguyễn Thị Mai Linh, sinh năm 1993, lên lớp 4

5.       Nguyễn Hoàng Ðức, sinh năm 1995, lên lớp 2

6.       Nguyễn Thị Kim Thanh, sinh đôi với cháu Ðức năm 1995, cũng lên lớp 2.

Gospelnet đã trợ giúp mỗi em 50.000 VND một tháng, từ đầu tháng 5 đến tháng 9.2002, nay vào năm học mới, xin tiếp tục trợ giúp tháng 10 năm 2002, tổng cộng: 300.000 VND.

CHƯƠNG TRÌNH "HỌC BỔNG ÐÔNG THẠNH"

Gospelnet tiếp tục trợ giúp tháng 9 năm 2002 cho 21 em học sinh nghèo sinh sống quanh khu vực bãi rác Ðông Thạnh, huyện Hóc Môn, Sài-gòn, tổng cộng: 21 x 50.000 VND = 1.050.000 VND, xin chuyển đến cô Phan Mỹ Linh, giáo viên trường PTCS Ðông Thạnh, Hóc Môn để phân phối đến tận tay gia đình các em.