GOSPELNET
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CHÚA NHẬT 4 A MÙA CHAY

TIN MỪNG: Ga 9, 1 - 41

ÐỨC GIÊ-SU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ BẨM SINH

Ði ngang qua, Ðức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta ?" Ðức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."

Nói xong, Ðức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa " ( Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái ). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao ?" Có người nói: "Chính hắn đó !" Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu ! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi !" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây !" Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế ?" Anh ta trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.' Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được." Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu ?" Anh ta đáp: "Tôi không biết."

Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. Nhưng ngày Ðức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy ?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ !"

Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không ? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được ?" Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, tự nó nó nói về mình được." Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giê-su là Ðấng Ki-tô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó."

Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được !" Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh ? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào ?" Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa ? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng ?" Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến." Anh đáp: "Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì." Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?" Rồi họ trục xuất anh.

Ðức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không ?" Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin ?" Ðức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. Ðức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !" Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Ðức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?" Ðức Giê-su bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn !"

SUY NIỆM 1:

ÐỨC GIÊ-SU, ÁNH SÁNG TRẦN GIAN

1. Nỗi khổ của người mù về tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù về thể lý:

Có hai loại người mù: mù thể lý và mù tâm linh. Mù thể lý là người có con mắt bị hư, hoặc từ lúc mới sinh hoặc do tai nạn, không nhìn thấy sự vật và con người xung quanh mình. Người mù không cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, vạn vật; đi đứng khó khăn, phải dựa vào cây gậy để dò đường hoặc phải bám vào cánh tay của một người thân để tiến bước. Người mù thể lý có nỗi khổ riêng mà ít ai hiểu nổi. Nhưng còn có một loại người mù khác: đó là mù tâm linh. Người mù tâm linh thì dù có đôi mắt sáng, cũng không nhìn thấy con đường mình đi, cũng không nhận ra ý nghĩa của cuộc sống và gía trị của vạn vật. Có thể nói nỗi khổ của người mù tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù thể lý, vì người ấy có mắt cũng như không, có sống nhưng chỉ là sống dật dờ, không định hướng. Cả người mù thể lý lẫn người mù tâm linh đều cần đến thày thuốc để được chữa lành. Câu chuyện Gio-an kể lại trong bài Phúc Âm hôm nay là một ví dụ.

2. Phúc âm Gio-an trình bày Ðức Giê-su là Ánh Sáng trần gian:

Trước hết Gio-an kể lại câu chuyện Ðức Giê-su chữa lành người mù mới sinh để mắt anh ta nhìn thấy được. Thế giới hiện hình trước đôi mắt ngạc nhiên và thích thú của anh. Cuộc đời anh thay đổi một cách quyết liệt, vì trước đây anh không thấy, bây giờ anh mới thấy. Chúng ta có thể hình dung niềm vui lớn lao như thế nào dâng trào trong tâm hồn anh !

Kế tiếp, Gio-an cho ta thấy Ðức Giê-su không chỉ là một bác sĩ đại tài mà còn là một bác sĩ tâm linh, là Người mở đường vào thế giới linh thiêng, thế giới của Thiên Chúa. Con mắt tâm linh anh mù đã nhìn ra điều mà những người Pha-ri-sêu thông thái, ‘đạo đức’ không nhìn ra: Ðức Giê-su là vị Ngôn Sứ, là Con Người, là Ðấng đem ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Anh ta đã thấy và đã tin ! Cả đôi mắt thể lý và tâm linh của anh đều sáng, trong khi đôi mắt thể lý của những người Pha-ri-sêu thì sáng nhưng mắt tâm linh của họ lại tối tăm mù lòa.

Nhìn vào xã hội loài người hiện nay, chúng ta thấy có nhiều hạng người mù về tâm linh: Biết bao người theo đuổi chiến tranh, hận thù, tham vọng bá chủ; biết bao người bóc lột, đàn áp người khác để làm giầu… Họ có mắt mà không thấy việc họ làm là bất lương, bất chính. Họ cần được Ðức Giê-su chữa lành con mắt tâm hồn.

3. Ðem Aùnh Sáng là chính Chúa Giê-su Ki-tô cho người xung quanh:

Trước khi đem ánh sáng - là Chúa Giê-su - cho người khác, chúng ta phải tự hỏi: "Ðức Giê-su có thật là ánh sáng cuộc đời tôi không ? Tôi có sống theo ánh sáng của Người không ? Tôi có đi theo con đường Người vạch ra không ?" Thánh Phao-lô Tông Ðồ trong thư Ê-phê-sô, đã hướng dẫn chúng ta phải sống như thế nào cho phù hợp với tư cách con cái sự sáng: Ðó là sống lương thiện, công chính và chân thật; đó là thực hiện những điều đẹp lòng Chúa; đó còn là từ chối và tố giác những hành động của con cái bóng tối. Chúng ta sống như thế là chúng ta đã đem Ðức Giê-su là ánh sáng cho người khác rồi. Sống được như thế không phải là chuyện dễ dàng trong hoàn cảnh hôm nay, vì môi trường chung quanh ta đầy rẫy bất lương, bất chính và gian trá. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, chúng ta còn phải tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu Chúa Giê-su là Ánh sáng cho người xung quanh, để mọi người nhận ra Người là Ngôn Sứ, là Sứ Giả của Thiên Chúa, là Ðường và là Sự Sống.

Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian ! Xin Chúa chiếu sáng những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc, u mê ! Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian ! Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhìn thấy thiên nhiên vạn vật, và nhất là để chúng con nhìn ra Chúa trong cuộc đời chúng con, trong những người sống chung quanh chúng con, trong các biến cố xảy ra cho chúng con.

Gs. NGUYỄN VĂN NỘI

SUY NIỆM 2:

ÐÔI MẮT MỚI

Trong bài viết "Ðôi mắt", Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã suy niệm về đôi mắt mù loà của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Ki-tô đã chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Ðức tin. Xin được mượn tư tưởng của Ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh.

"Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em..." ( Lưu Trọng Lư )

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: "Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng" ( St 3, 4 - 7 ). (  Trích Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 - 71 )

Ðoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

-  Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra

-    E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt

-    Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. ( sđd. tr 72 ). "Mà nhìn thì đã sướng mắt", cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam - E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Ki-tô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giê-su chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. "Mù từ thưở mới sinh" là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Ki-tô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Ðức Tin. Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.

Chúa Giê-su chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-sêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giê-su lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.

Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giê-su và được hỏi: "Anh có tin Con Người không ?" thì anh đáp lại ngay: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin ?" Chúa Giê-su tỏ mình ra cho anh: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh liền đáp: "Lạy Thầy, tôi tin." Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giê-su trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa làtâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Ðức Giê-su là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giê-su cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Người mở mắt cho Da-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1 - 10 ). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36 - 50 ). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32 - 43 )...

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Ðức Ki-tô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Ðấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Ðấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Ðức Ki-tô.

                  Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN ( Phan Thiết )

SUY NIỆM 3:

CHÚA GIÊ-SU LÀ ÁNH SÁNG

Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Ðức Ki-tô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giê-su là sự sáng cho trần gian.

I. ÐỜI NGƯỜI CÓ HAI NỖI KHỔ:

Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Ðó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.

Aùnh sáng như vậy rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Ðó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.

Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.

II. CHÚA GIÊ-SU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ BẨM SINH:

Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1 - 41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giê-su đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giê-su lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời.

Chúa Giê-su đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giê-su vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giê-su. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giê-su đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " ( Ga 1, 32 - 33 ).

Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giê-su, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không ?" ( Ga 1, 35 ). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" ( Ga 1, 38 ). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người.

Phép lạ Chúa Giê-su làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giê-su ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Ðức Giê-su như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Ðất Hứa là Nước Trời.

III. DIỄM PHÚC VÀ BỔN PHẬN CỦA TA

Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Ðầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " ( Tv 23, 4 - 5 )

Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Ðó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Ða-vit: Ða-vít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Ðồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.

Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l’ histoire vraie" ( Cent. 1994, trang 364 ) để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Ðức Giê-su làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Ðức Giê-su, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Ðức Giê-su nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".

   Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỠI và Lm. An-tôn TRẦN THẾ PHIỆT DCCT

SUY NIỆM 4:

ÐỊNH KIẾN

Vui mừng trước thất bại của người khác, khổ sở khi người khác thành công. Chuyện không lạ gì trong nhân gian. Sẵn một định kiến không hay về Chúa Giê-su, người Do-thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do-thái luôn luôn có sẵn một cái nhìn, một lối nghĩ, nặng nề hơn: một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giê-su, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả, dù đó là lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi, việc cứu sống…

Bài Tin Mừng hôm nay là một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân ấy. Một người mù từ khi mới sinh, được Chúa Giê-su chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: "Mày sinh ra trong tội". Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội, chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do-thái. Thế là bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.

Dấu lạ sáng mắt của anh - điều mà từ thuở mới sinh, anh không thể có được. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mang mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy - Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi ăn xin, và mạnh hơn nữa: những ai đã từng rút tiền cho anh. Lẽ ra dấu lạ kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không làm nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng.

Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Ðấng đã chữa anh khỏi mù, Ðức Giê-su, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ ( đã không chữa được cho anh ), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ nói về Chúa Giê-su thế này: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa... Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi".

Chúng ta tự hỏi, tội lỗi có thể cho kết quả tốt không ? Và hành vi tội lỗi của người này có thể bù đắp được khiếm khuyết của người kia sao ? Chúa Giê-su trả lại hạnh phúc cho một người đau nỗi đau khiếm khuyết hạnh phúc ngay từ khi chưa biết nói, biết cười, đến khi bước vào tuổi trưởng thành, thì hành vi hoàn trả ấy lại là đứa con của tội lỗi sao ?

Ðáng thương cho những người Do-thái thời Chúa Giê-su. Thay vì Chúa Giê-su trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Ðui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác. Ðui mù tâm hồn đưa người ta đến chỗ kết án anh em mà quên kiểm tra mình. Ðui mù tâm hồn làm cho người ta không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là nhất, còn mọi người xung quanh, dẫu có tốt đến đâu, cũng chỉ là sản phẩm của tội, của cái xấu.

Ðáng thương cho những người Do-thái thời Chúa Giê-su. Bởi khi gán cho anh chị em mình bản án tội lỗi, mặc nhiên họ nhìn nhận bản thân họ vô tội. Nhưng những người "vô tội" như họ sao không làm nổi một dấu lạ, dẫu là một dấu lạ nhỏ nhất, còn những người bị kết án là tội lỗi lại làm nên một dấu lạ phi thường và được thừa hưởng kết quả tuyệt vời của dấu lạ ấy ? Ðâu phải họ không nhận ra điều đó. Thánh Gio-an cho biết: "họ bất đồng ý kiến" vì một câu hỏi được nảy sinh: "Làm sao người tội lỗi lại có thể làm được những phép lạ thể ấy ?" Giá mà họ tận dụng lời hỏi này như một lời tra vấn lương tâm, có lẽ họ đã thay đổi não trạng. Nhưng đáng thương và cũng đáng tiếc cho những người lãnh đạo Do-thái thời đó, bởi điều ấy đã không xảy ra. Sẵn một định kiến xấu xa quá lớn về Chúa Giê-su, làm cho họ đui mù hoàn toàn. Một sự đui mù quá nguy hiểm.

Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho cả tôi và bạn, nếu chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình. Xã hội đã có quá nhiều những định kiến như thế. Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm. Một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt. Một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận. Một người lỡ sa vào nghiện ngập hay lỡ mắc bệnh AIDS, thay vì được thông cảm, suốt đời người ấy bị nhìn bằng ánh mắt tầm thường, khi dễ... Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn. Khi mang sẵn một định kiến xấu cho anh chị em, dẫu không ai mời ta làm quan án, ta trở thành quan án bất công.

Chúa Giê-su không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Gia-cóp, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sámhối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giê-su, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm Giáo Hoàng của Phê-rô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giu-da nặng nề: "Mày sinh ra trong tội", như người Do-thái lên án anh mù, dẫu Chúa Giê-su có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giu-da phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình.

Trên thập giá, Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: "Xin Cha tha cho họ..." Và Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta. Trong đời bạn và tôi, có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quyên tội ta, quên tất !...

Mùa Chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta. Bạn và tôi hãy nên giống Chúa Giê-su !

J.B NGUYỄN MINH HÙNG

CHỨNG TỪ 1:

HÃY MAU TÌM GẶP CHÚA LÀ NGUỒN ÁNH SÁNG !

Thưa các bạn, Chúa ở đâu ? Rõ ràng đây là một câu hỏi cũ rích cả 2.000 năm nay, cái câu hỏi đã làm tốn bao nhiêu giấy mực để con người bị phân hóa rồi tranh cãi nhau, chém giết nhau, chinh phục nhau và thống trị nhau để dành phần phải về mình. Ðiều này khiến chúng ta nhớ câu chuyện ngụ ngôn: 5 người mù xem voi. Người thì bảo CON voi giống con rắn, khi anh ta rờ nhằm đuôi voi. Kẻ khác bảo giống cái cột đình khi anh rờ nhằm cái vòi voi v.v... Chẳng ai nói dối cả và cũng chẳng ai nói đúng. Họ chỉ phạm vào cái lỗi lầm: "Ðừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Ðức Chúa thì thấy tận đáy lòng."  ( 1 Sm 16, 7 )

Sau này Thánh Thần đã soi sáng lòng tôi, một kẻ từng thấy ánh sáng và gặp tai nạn trở thành người mù. Tôi cũng đã khóc lóc và khẩn cầu như bao kẻ đang gặp khổ đau trên đời này. Tôi cũng giống ông thần bị nhốt trong ve chai thả trôi ngoài biển của truyện 1.001 đêm. Tôi hứa với Chúa sẽ tùng phục Chúa, rồi sẽ hiến trọn đời cho Chúa v.v... để được Ngài chữa lành mắt. Sau đó tôi đã oán hận Chúa, như vị thần trong cái chai cổ tích. Tôi oán hận vì Ngài bỏ rơi tôi suốt một khoảng thời gian dài như thể đã mấy ngàn năm.

Thế rồi, một lần nọ, tôi gặp cha Q. tại giáo xứ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, đường Hoàng Hoa Thám, Bình Thạnh. Cha trước đây là thầy giáo của tôi năm lớp 11. Tôi hỏi cha làm sao gặp được Chúa. Cha đáp rất đơn sơ: Hãy cầu nguyện và gặp Chúa trong lời nguyện. Tôi vẫn chẳng hiểu được lời này. Tôi cứ nghĩ, gặp Chúa là một ơn Thánh hết sức đặc biệt. Chỉ những người trọn lành mới được gặp Ngài. Quả đúng ấy là một ơn lành hết sức cao trọng. Nhưng ơn lành này Chúa lại hứa: ai tìm thì sẽ gặp. Tôi lại tiếp tục đơn độc trong việc tìm kiếm này.

Một hôm, một ý nghĩ táo bạo mà Thánh Thần soi sáng cho tôi: Hãy xin Chúa cho tôi được gặp Ngài. Tôi làm thử và phép lạ diễn ra thật dễ dàng. Các bạn hãy thử nói với Ngài điều ấy đi. Ðừng cô đơn trên con đường tìm kiếm Chúa, hãy đồng hành với Chúa để tìm Ngài. Các bạn cũng sẽ trải qua một kinh nghiệm mầu nhiệm như tôi. Ngài sẽ đến với tâm hồn bạn. Lòng bạn sẽ hân hoan trước những nỗi khổ thế gian đang vây quanh. Ngài sẽ soi sáng tâm hồn bạn bởi Ngài là "Ánh Sáng Thế gian" ( Ga 9, 5b ).

Từ hôm đó, mọi lời Ngài để lại trong Kinh Thánh, lâu nay rất tối nghĩa đối với tôi, giờ đây đã trở thành dễ hiểu vô cùng. Tôi có thể dám cả quyết rằng, mầu nhiệm Nhập Thể năm xưa vẫn còn tồn tại trong lòng những ai đón nhận Chúa. Bạn sẽ nhận ra mình đóng vai các Thánh Tông Ðồ: Hăm hở nhiệt tình đấy, rồi lại vội vàng bỏ Thầy chạy trốn; xong lại nói: "Bỏ Thầy con biết theo ai ?"

Những điều mà tôi đang trải qua rất khó tả. Nó không chứng minh được tôi là một vị Thánh sống, cao cả, hy sinh, nhân từ với một kho đức tính trong lòng. Trái ngược lại, tôi luôn cảm nhận mình là kẻ yếu đuối, sa ngã, phản Thầy, dối Chúa, đàng điếm, trộm cắp v.v... cả một kho tội lỗi thế gian trong lòng. Chỉ khác lúc xưa mỗi một điểm: đó là tôi có Chúa, tôi gặp Chúa và Chúa đang đồng hành với tôi. Ân sủng Ngài luôn ban cho tôi dư dật và tôi đã sa hoa như bậc vương giả !

Trở lại câu hỏi đầu: Chúa ở đâu ? Nếu bạn thật tâm muốn tìm thì hãy hỏi chính Chúa câu hỏi này. Bất cứ lúc nào bạn không thấy Chúa, xin hãy lập lại. Nguồn ơn cao trọng và cả thể ấy luôn dành sẵn cho bạn và chờ bạn đến nhận. Hoa chỉ đẹp khi mọc trên bãi phân, trong đống rác hôi tanh. Bạn sẽ là hạt mầm gieo trong phân rác thế gian để thánh hóa nó và biến khổ đau thành hạnh phúc; biến nước mắt thành nụ cười; biến phàm nhân thành con cái Thiên Chúa. Xin hãy tìm kiếm Ngài ngay lập tức và tìm Ngài với hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn. Thánh Thần sẽ biến đổi đời ta.

TRẦN BÁ, một người mù không phải từ thuở mới sinh...

CHỨNG TỪ 2:

ÁNH SÁNG ÐỂ NHẬN RA CHÚA

Trước ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, một cô gái đã chia sẻ với mọi người câu truyện của đời cô:

"Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Ðiều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, nhà chỉ cách Nhà Thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến Nhà Thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa Nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về Ðức Tin, về Thiên Chúa, về Chúa Ki-tô, đôi khi nhắc lại những câu Kinh Thánh hay những lời Linh Mục giảng dạy. Tôi luôn luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông...

Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới Thánh Ðường tham dự Lễ Giáng Sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: "Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy ?" Tôi im lặng... Khi chúng tôi vừa đặt chân tới của Nhà Thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: "Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa." Ông hỏi: "Cháu nói thế có nghĩa là gì ?" "Nội biết không, những lời Nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa Nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến Nhà Thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa."

Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp: "Ðó là lý do tại sao tôi có mặt trong lớp Giáo Lý này..."

Lm. BÙI MẠNH TÍN, trích từ Nguyệt san Trái Tim Ðức Mẹ

 

CÂU TRUYỆN:

ÐÔI MẮT CỦA TÂM HỒN

Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quờ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước... Còn đến khi vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braille trên trang giấy nổi...

Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh Thánh Giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết... Em kể rằng: "Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: Ðèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy !"

Tôi ân cần hỏi em: Thế em có thấy vui không ?" Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời ngay: "Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng !" Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: Con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngúm rồi nhỉ ? Lạy Chúa, xin Chúa hãy là đèn sáng cho cuộc đời con, Chúa ơi !

Trích Ðặc San CON ÐỨC MẸ, Xuân 2000

THÔNG TIN:

THÔNG TIN VỀ CÁC KHOẢN TIỀN ÂN NHÂN MỚI GIÚP

Tính đến ngày 6.3.2002, Gospelnet đã nhận được các khoản tiền quý độc giả và ân nhân gần xa gửi về để chia sẻ trợ giúp người nghèo như sau:

- Chị Khuất Ngọc Diệp ( Hoa Kỳ ), góp quỹ cứu trợ lũ lụt: ................................................................................... 100 USD

- Bạn MK Trần Thị Mỹ Phượng ( Hoa Kỳ ), góp quỹ cứu trợ lũ lụt: ...................................................................... 30 USD

- Bạn MK Trần Huyền Trân ( Hoa Kỳ ), giúp quỹ người nghèo: ............................................................................. 40 USD

- Vợ chồng bạn MK Cẩm Lệ + Thy ( Pháp ), giúp người nghèo: .......................................................................... 100 USD

- Anh chị Phạm Minh Tuyết ( Hoa Kỳ ), giúp quỹ người nghèo: .......................................................................... 200 USD

- Anh chị Nguyễn Duy Linh + Nga ( Hoa Kỳ ), giúp "Học Bổng Pleichuet": ..................................................... 500 USD

- Ông Peter Cao ( Hoa Kỳ ), giúp 2 trường hợp ở Giáo Xứ Tiên Phước, Quảng Nam ......................................  200 USD

- Một Linh Mục xin ẩn danh ( Việt Nam ), giúp quỹ người nghèo: ..................................................................... 100 USD

- Một Linh Mục xin ẩn danh ( Việt Nam ), giúp quỹ người nghèo: ....................................................................  600.000 VND

- Vợ chồng bạn MK Kim Phượng + Hải ( Việt Nam ), giúp quỹ người nghèo: .................................................. 500.000 VND

- Vợ chồng bạn MK Minh Châu + Ðịnh ( Việt Nam ) giúp "Học Bổng Xuân Hiệp" ....................................... 300.000 VND

- Vợ chồng bạn MK Thanh Thư + Thanh Tùng ( Việt Nam ) giúp "Học Bổng Xuân Hiệp" .................................................  700.000 VND

- Anh Hoàng Văn Phúc ( Việt Nam ) chia sẻ Mùa Chay: ........................................................................................  200.000 VND

Tổng cộng: 1.270 USD và 2.300.000 VND

THÔNG TIN VỀ MỘT NGƯỜI GIÀ BỊ LÒA MẮT VÀ ÐAU TIM Ở CẦN THƠ

Chị Bùi Thị Hồng Nga anh Phan Ðức Long ( CLB Người Khuyết Tật Cần Thơ ) giới thiệu trường hợp bà TRƯƠNG THỊ SUY ( 63 tuổi ), còn gọi là Dì Sáu Xuân, ngụ tại 251 / 28 Trần Ngọc Quê, thành phố Cần Thơ bị bệnh đau hai mắt, có thể bị lòa, lại thêm bệnh tim trở nặng, hoàn cảnh gia đình lại quá nghèo và neo đơn, không đủ tiền chi phí chạy chữa. Gospelnet đã kính nhờ các Soeurs Dòng Chúa Quan Phòng ở Cần Thơ, chuyển giúp ngay đến bà Suy số tiền 1.000.000 VND đang khi chúng tôi cố gắng tìm bác sĩ quen ở Viện Mắt để xin giúp đỡ đặc biệt cho bà.

THÔNG TIN VỀ THỈNH NGUYỆN THƯ CỨU MẠNG CHỊ SAFYA HUSSEINI

Tính đến ngày 5.3.2002, Gospelnet đã nhận được tổng cộng 617 người ghi danh trong Thỉnh Nguyện Thư  gửi Lãnh Sự Quán Nigeria tại Roma để xin cứu mạng chị SAFYA HUSSEINI. Danh sách gồm các độc giả là Linh Mục, Nam Nữ Tu Sĩ và Giáo Dân tuyệt đại đa số ở Việt Nam, một số ở các nước Pháp, Hoa Kỳ, Ðức, Ý, Úc, Phi-luật-tân. Danh sách quá nhiều, gần 6 trang giấy A4 với 2 cột, nên chúng tôi xin phép không đăng lại trên báo nữa. Ðược biết, báo Abba cũng đã nhận được một danh sách khác và đã gửi đi.

Thỉnh Nguyện Thư thứ nhất với danh sách 617 người này đã được gửi đi sáng ngày 5.3.2002. Chúng tôi xin đăng lại nội dung Thỉnh Nguyện Thư để có thể lập thêm một danh sách thứ nhì tiếp theo:

Cả thế giới đang được huy động để cứu mạng sống cho chị SAFYA HUSSEINI, người Nigeria, vừa bị tòa án ở đây kết án tử hình vì tội có con ngoài hôn thú. Nếu bản án không thay đổi, chị sẽ bị ném đá đến chết. Ðây là một bản án quá nặng nề và bất nhân đối với một người mẹ, hơn nữa, chị SAFYA còn là một nạn nhân thấp cổ bé miệng, trong khi người đàn ông gây nên tội hãm hiếp đã cao chạy xa bay, nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Cũng không thể để bé ADAMA chưa đầy 1 tuổi phải mồ côi mẹ trong một hoàn cảnh cực kỳ bi thương.

Chúng tôi kêu gọi mọi người, đặc biệt là các bạn đọc Ephata và Gospelnet, các anh chị em các Dòng Tu... cùng góp tiếng nói vận động hủy bản án tử hình cho chị, trong một lá thư điện tử gửi về sứ quán Nigeria tại Roma: embassy@nigerian.it nhờ chuyển thỉnh nguyện đến tổng thống Nigeria để xin ân xá cho chị SAFYA. Nếu quý độc giả muốn gửi chung, xin gửi một E-Mail với họ tên và địa chỉ về cho chúng tôi theo địa chỉ: ttmvdcct@fptnet.com

Xin lưu ý: nước Nigeria là một nước mạnh về Hồi giáo, chị SAFYA bị kết án theo luật Sharia, hiện đang có căng thẳng giữa dân Hồi giáo và dân Ki-tô giáo. Chúng ta không nên tạo thêm xung đột tôn giáo, vì vậy chúng tôi thiết tưởng trong lời kêu gọi ta không nên nhân danh lòng bác ái và từ bi Ki-tô giáo, hãy nhân danh lòng nhân đạo, với tư cách con người, tư cách công dân Việt Nam của ta. Xin cám ơn mọi người với niềm tin tưởng. Dưới đây là phác thảo nội dung thỉnh nguyện thư:

"Monsieur l'ambassadeur, nous supplions votre excellence d'intervenir en notre nom, auprès du Président de la République du Nigeria, en faveur de SAFYA HUSSEINI, de Tungar - Tudu, pour lui sauver la vie, et pour que son enfant ne soit pas orphelin. Merci."

Ðể tránh lấy danh nghĩa một cộng đoàn Ki-tô giáo, sẽ không có ghi chú là Linh Mục hay Tu Sĩ thuộc Dòng Tu nào. Chỉ cần ghi Họ và Tên, Tỉnh Thành đang cư ngụ hoặc làm việc và Việt Nam. Danh sách này sẽ gửi ra nước ngoài nên không thể đánh dấu tên họ vì sẽ khó có được font chữ VNI tương ứng để đọc được.

THÔNG TIN VỀ 5 TRƯỜNG HỠP CẦN XE LĂN

Sr. Tuyết Trinh, Dòng Ða-minh Rosa Lima, giới thiệu 5 trường hợp cần được trợ giúp xe lăn gồm:

1. NGUYỄN NGỌC SƠN, sinh năm 1963, bị sốt bại liệt, liệt cả 2 chân và 1 tay, hiện ngụ tại tổ 5, ấp Tân Bình, Xã Lang Minh, huyện Xuân Lộc , tỉnh Ðồng Nai.

2. NGUYỄN KIM HÙNG, sinh năm 1968, bị tai nạn lao động, gãy cột sống, liệt cả 2 chân, hiện ngụ tại tổ 18, xã Xuân Bình, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.

3. TRẦN MẠNH THU, sinh năm 1967, bị tai nạn, liệt cả 2 chân, hiện ngụ tại tổ 1, khu 3, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.

4. TRẦN VĂN TRIỆU, sinh năm 1968, bị sốt bại liệt, liệt cả 2 chân, hiện ngụ tại ấp Tây Minh, xã Lang Minh, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.

5. NGUYỄN VĂN HIỆN, sinh năm 1956, bị sốt bại liệt, liệt cả 2 chân, hiện ngụ tại số 258 / 6 ấp An Bình, xã Trung Hòa, huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai.

Gospelnet xin trích quỹ mua 5 xe lăn, loại xe của Trung Quốc, còn mới nguyên trong thùng, trị giá 1 triệu VND. Tổng cộng: 5.000.000 VND.

THÔNG TIN VỀ 8 EM HỌC SINH NGHÈO Ở CAM RANH

Thầy Vũ Tùng Lân, DCCT, vừa mới gửi thêm một danh sách 8 em học sinh nghèo, rất cần được trợ giúp để không bị dở dang việc học hành:

1. Em NGUYỄN THÀNH MINH PHONG, sinh ngày 23.11.1995, đang học lớp 1, học sinh tiên tiến, cha là Nguyễn Thành Nhân, mẹ là Phan Thị Thu Hải, tình trạng gia đình luôn luôn thiếu đói, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

2. Em PHAN THỊ NGỌC TRÂM, sinh ngày 27.8.1989, đang học lớp 6, học sinh tiên tiến, cha là Phan Triều, mẹ là Nguyễn Thị Thủy, hoàn cảnh gia đình rất nghèo, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

3. Em ÐINH BÌNH, sinh ngày 8.2.1991, đang học lớp 5, học sinh tiên tiến, cha là Ðinh Văn Ðiền, mẹ là Huỳnh Thị Tin, tình trạng gia đình luôn luôn thiếu đói, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

4. Em VŨ NGỌC ANH NHI, sinh năm 1990, đang học lớp 6, học sinh giỏi, cha là Vũ Tùng Lâm, mẹ là Nguyễn Thị Ngọc Bích, hoàn cảnh gia đình rất nghèo, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

5. Em PHẠM THỊ TUYẾT SƯƠNG, sinh ngày 22.7.1993, đang học lớp 3, cha là Phạm Biên, mẹ là Trần Thị Huề, hoàn cảnh gia đình rất nghèo, hiện ngụ tại thôn Vĩnh Thái, xã Cam Hiệp Nam, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

6. Em NGUYỄN THỊ KHÁNH LY, sinh ngày 10.4.1988, đang học lớp 8, cha là Nguyễn Trọng, mẹ là Nguyễn Thị Bình, hoàn cảnh gia đình rất nghèo, hiện ngụ tại thôn Vĩnh Thái, xã Cam Hiệp Nam, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

7. Em HOÀNG THỊ HỒNG THANH, sinh ngày 12.4.1989, đang học lớp 7, cha là Hoàng Văn Tân, mẹ là Nguyễn Thị Khánh, gia đình rất đông con lại quá nghèo, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

8. Em PHẠM THỊ THÚY TRANG, sinh ngày 19.2.1988, đang học lớp 8, học sinh giỏi, cha là Phạm Văn huệ, mẹ là Ðoàn Thị Thường, hoàn cảnh gia đình rất nghèo, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Trước mắt, Gospelnet xin trợ giúp cho mỗi em 50.000 VND một tháng, trong 3 tháng, kể từ tháng 3 đến hết tháng 5.2002. Tổng cộng: 1.200.000 VND. Gospelnet xin ghép chung danh sách 8 em này với 6 em đăng trên Gospelnet 49 và 12 em đăng trên Gospelnet 51 để lập thành "HỌC BỔNG CAM RANH" gồm tất cả 26 em, bắt đầu từ tháng 3 năm 2002. Như vậy, mỗi tháng, mỗi em cần được trợ giúp 50.000 VND, tổng cộng: 1.300.000 VND / tháng. Rất mong quý độc giả gần xa cộng tác với Gospelnet lo liệu cho các em.

Ngoài ra, thầy Lân còn giới thiệu 2 trường hợp ngặt nghèo và già yếu neo đơn khác:

Bà NGUYỄN THỊ DỮ, 77 tuổi, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, đang nuôi một người em 70 tuổi bị bệnh tâm thần.

Bà BÙI THỊ PHẤN, 70 tuổi, hiện ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, tuy không có họ hàng nhưng vì lòng tốt lại nhận nuôi một người con gái bị bệnh động kinh là con của một người cũng bị bệnh động kinh.

Gospelnet xin trích quỹ 600.000 VND để trợ giúp 2 trường hợp đáng thương nói trên.

THÔNG TIN VỀ 2 TRƯỜNG HỠP BẠI LIỆT CẦN XE LĂN

Sr. Nguyễn Thị Bá và Sr. Phạm Thị Huyện, Dòng Chúa Quan Phòng, giới thiệu 2 trường hợp sau đây:

1. Anh NGUYỄN TRÁNG SINH, sinh năm 1955, con của ông Nguyễn Văn Thịnh, 73 tuổi và bà Nguyễn Thị Bắc, 65 tuổi, hiện ngụ tại ấp Vĩnh Cửu, xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Ðồng Nai, thuộc Giáo Xứ Nghĩa Yên. Gia đình cha mẹ đã già yếu, mất sức lao động, chỉ có 2 sào ruộng, làm không đủ ăn. Anh Sinh lại bị bại liệt từ nhỏ, chỉ nằm một chỗ, chuyển sang tình trạng cong xương sống, rất cần một xe lăn để lo thêm sinh kế cho gia đình.

2. Bà NGUYỄN THỊ XINH, 55 tuổi, hiện ngụ tại ấp Tân Lập A, xã Long Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Bà Xinh bị tai biến mạch máu não, liệt cả 2 chân đã lâu, rất cần được giúp một xe lăn để đi lại và lo thêm sinh kế và đi Nhà Thờ.

Gospelnet xin trích quỹ mua 2 xe lăn của Trung Quốc còn mới, tổng cộng: 1.960.000 VND, chuyển cho các Sr. Chúa Quan Phòng gửi giúp 2 trường hợp trên.   

 

 

Xin quý độc giả sau khi nhận báo Ephata hoặc Gospelnet, xin lưu ( save ) ngay vào ổ đĩa cứng, rồi xóa bớt ( delete ) ngay trong Hộp Thư ( Inbox ), lại bấm thêm vào Empty Trash để có chỗ trống nhận các thư và báo khác sẽ gửi đến. Rất nhiều địa chỉ chúng tôi đã gửi đến đều bị trả về, vì Inbox đã vượt quá trữ lượng cho phép ( over quota, storage exceeded ). Thư từ bài vở xin gửi về: ttmvdcct@fptnet.com. Xin cám ơn.