GOSPELNET
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI

TIN MỪNG: Ga 16, 12 – 15

"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì,
nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."

SUY NIỆM:

1.     ÐỨC GIÊ-SU CÒN NHIỀU ÐIỀU CHƯA NÓI HẾT

Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra Ðức Giê-su đến thế gian để mặc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi ( 33 năm ), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ ( 3 năm ) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Ðấng vô cùng vô tận ? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ.

Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Ðấng vô hạn, lẽ nào Ðức Giê-su lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được ? Giả như Ðức Giê-su có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Ðấng vô biên và phong phú khôn lường ! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi". Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các Tông Ðồ lúc ấy chẳng lãnh hội được !

"Không có sức chịu nổi", vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Ðức Giê-su không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.

Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mặc khải qua Ðức Giê-su, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao ?

2. THẦN KHÍ SỰ THẬT SẼ TIẾP TỤC NÓI

Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mặc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mặc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Ðức Giê-su đã hứa: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn". Thánh Thần đã hiện xuống trên các Tông Ðồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mặc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Ðức Giê-su: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giô-en đã báo trước: "Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ" ( Cv 2, 17 – 18; xem Ge 3, 1 – 2 ).

Nếu tất cả những gì Ðức Giê-su nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mặc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Ðức Giê-su đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công Vụ Tông Ðồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mặc khải của Thánh Thần. Những mặc khải ấy ở đâu ? là gì ? Ðó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.

Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Ki-tô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn giáo khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Ki-tô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Ki-tô giáo đến trễ như vậy ? Ngài có muốn Ki-tô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không ? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta ! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy ! ( xem Is 55, 8 – 9 )

3. MUÔN LOÀI VẠN VẬT ÐỀU ÐA DẠNG VÀ ÐA DIỆN

Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ.

Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.

Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo, mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.

4. HÃY BẮT CHƯỚC BA NGÔI THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA

Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.

Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Ðừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.

Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.

NGUYỄN CHÍNH KẾT

CẦU NGUYỆN:

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Ðó cũng chính là Nước Trời mà Ðức Giê-su muốn xây dựng cho trần gian.

CÂU TRUYỆN:

CÂU HỎI VỀ THIÊN CHÚA

Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Trong các tiết học Giáo Lý, trong các bài giảng Thánh Lễ, chúng ta thường được nghe diễn giải bằng rất nhiều hình tượng, nhiều câu truyện minh họa để có thể hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Như câu truyện của Thánh Augustin với em bé ngồi múc nước biển bằng một chiếc vỏ sò; như hình ảnh bàn tay với 3 ngón xòe ra; như một cái cây có 3 nhánh... Nhưng nếu đã là một mầu nhiệm thì có lẽ con người sẽ chẳng bao giờ hiểu cho thấu. Và sẽ còn mãi một câu hỏi về Thiên Chúa Ba Ngôi mà câu trả lời chính là...

Một lần nọ, một vị Ðạo Trưởng tập trung các môn sinh lại, rồi hỏi người đồ đệ đứng hàng đầu:

-        Theo con, có Thượng Ðế hay không ?

-        Dạ, thưa thầy có.

-        Sai rồi !

-        Dạ, thưa thầy, không có ạ !

-        Cũng sai nốt !

Thấy vị Ðạo Trưởng trầm ngâm không nói gì nữa, các môn sinh liền thắc mắc gạn hỏi thêm:

-        Nếu thế, câu trả lời là thế nào ạ ?

-        Không hề có câu trả lời.

-        Nhưng... tại sao lại không ạ ?

-        Bởi vì cũng không thể đặt câu hỏi về Thượng Ðế !

Nhìn các môn sinh đang còn ngẩn ngơ vì không hiểu gì, vị Ðạo Trưởng giải thích:

-     Nếu các con không thể nói điều bất cứ gì về Thượng Ðế, bởi vì Người là Ðấng vượt trên mọi tư tưởng và lời nói của loài người chúng ta, thì làm sao các con lại có thể hỏi được điều gì đó về Người ?

Theo LỜI HẰNG SỐNG 6.2000

CẢM NHẬN:

TIN VUI THỜI ÐIỂM CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI:
NÉT ẨN MẬT TRONG DÒNG MÁU VIỆT

THỜI ÐIỂM TỶ LỆ BỆNH TÂM TRÍ

Năm 1995 xẩy ra vụ nổ bom một tòa nhà có nhiều cơ quan chính phủ tại Oklahoma City nước Mỹ, trong đó có một vườn trẻ. Nhiều người bị chết thê thảm, trẻ con cũng bị banh xác. Phi lí quá ! Những người mẹ vừa khóc thảm sầu vừa nhặt những mảnh thịt xương con mình văng vãi. Sau đó, nhiều người bị khủng hoảng tâm lý. Tivi phải thường xuyên kêu gọi các bác sĩ tình nguyện giúp chữa những người bị điên.

Vụ Oklahoma City chỉ là một tiêu biểu. Tỷ lệ người Mỹ bị điên thật cao so với những nước Á Ðông. Một người thân chết cũng bị điên. Bị ly dị cũng điên. Bị mất việc cũng điên. Nói chung người Âu Mỹ sống trong xã hội nhiều tiện nghi nên sức chịu đựng ít được tôi luyện. Nếu theo mức này thì chắc người Việt mình trong hơn nửa thế kỷ qua cần phải có mấy triệu bác sĩ trị liệu tâm lý. Nhưng thật lạ, trải qua những đau khổ cùng tột trong chiến tranh như vậy mà số người Việt bị điên, bị mát không nhiều. Sức chịu đựng phi thường của người Việt đã làm ngạc nhiên cho mọi người.

Nhiều người ngoại quốc trong đó có linh mục dòng Tên người Ý tên Việt là Ðỗ Minh Trí ( phiên âm bởi tên chính là Dominici ), người đã nhận Việt Nam là quê hương của mình, đã có một nhận xét rất đặc sắc về tâm hồn Việt Nam. Sức chịu đựng bền bỉ và thích nghi cân bằng đời sống với bất cứ hoàn cảnh nào đã trở thành nét văn hóa tiêu biểu như một gia sản riêng của người Việt, ít dân nào có được:

"Cuộc sống con người là một sự cân bằng giữa sức khoẻ và bệnh tật, niềm vui và đau khổ, giữa lao động và nghỉ ngơi, giàu có và nghèo nàn... Khi sự cân bằng đó mất đi bởi vì một yếu tố trở nên lấn lướt hơn so với yếu tố kia, con người sẽ bị khủng hoảng. Cuộc sống của cả một dân tộc trở nên phong phú và có nhân tính nếu như cái dáng dấp bi thảm của khổ đau quân bình với cái hình dạng của niềm hân hoan và hạnh phúc...

Tôi nhớ vào năm 1979 ở Kuku, các bác sĩ người Pháp đã rất kinh ngạc vì số lượng rất thấp của những căn bệnh rối loạn tâm trí giữa một số lượng đông đảo người tị nạn đang sống trong một tình cảnh bi đát. Tôi tin rằng sở dĩ có được điều này là do tâm tính vui vẻ và thơ thới của Người Việt...

Chính ngay điều đó chứng tỏ được rằng sự thông minh của người Việt đã biết cách tạo dựng nên những điều kiện lý tưởng để cho cuộc sống của họ, dù rằng đôi khi cay đắng và bi thảm, trở nên có nhân tính. Nhân tính, đó mới là phẩm chất mà theo tôi, tâm hồn người Việt Nam có thể tóm gọn vào hai chữ đó. Người Việt Nam có rất nhiều nhân tính. Họ không khao khát một sự thánh thiện cao siêu, một nếp sống hào hùng hay những khám phá phi thường. Lý tưởng của họ là một nếp sống an nhàn, tràn đầy niềm vui đơn sơ và bình dị của con người. Chính cái nhân tính đó đã làm cho người ngoại quốc rất ưu ái và gắn bó rất chặt chẽ với dân tộc Việt Nam. Nhất là người Tây phương rất cần đến cái nhân tính đó của người Việt Nam, là vì họ đã biến đổi cuộc sống thành một cuộc chạy đua điên cuồng trong lãnh vực tiến bộ khoa học kỹ thuật, một sự tiến bộ đã làm cho cuộc sống nhân loại khổ sở biết chừng nào !" ( Linh Mục Dominici, Việt Nam Quê Hương Tôi, Diễn Ðàn Chúa Nhật, trang 26 – 28 )

TRUY TẦM NÉT ẨN MẬT

Nhiếp ảnh gia Mark Sindler nổi tiếng ở New Orleans về những bức hình diễn được nét văn hóa tiêu biểu của người Việt mà người Âu Mỹ đang cần tìm hiểu. Anh mò ra được vùng "kinh tế mới" là vùng đất bỏ hoang từ lâu, nay được các cụ Việt ta chặt cây, làm cỏ, xới đất trồng rau, thành hàng thành luống. Lúc đầu thì lấy thùng xách nước dưới mương lên trông rất "miệt vườn". Sau này các cụ "cơ giới" hóa bằng máy bơm, mua cũng rẻ thôi. Nhìn những đọt rau đang mơn mởn phóng lên, các cụ thấy đời mình tươi trẻ lại, hy vọng lóe lên trong ánh mắt. Về nhà ăn cơm thấy ngon hơn, đọc kinh thấy dòn hơn, chứ không uể oải như mọi khi.

Rình mãi, Mark Sindler mới chụp được cảnh "Vườn Rau Xanh Ngát Một Mầu" của mấy ông bà cụ vùng Versailles. Thay vì ngồi than ngao ngán "thấy đời mình là những quán không" thì đi trồng rau. Vừa chạm đến thiên nhiên tươi mát, vừa có tiền còm mua bánh kẹo cho các cháu. Các cụ còn phát ngôn ngon lành: "Người Mỹ các anh cứ nhốt mình trong phòng như cái hộp vuông. Như vậy điên mát là đúng rồi. Phải mở hộp vuông ra mà hòa với trời tròn, với đời sống cộng đồng, thì cuộc sống mới vuông tròn được. Nước cứ bị đóng lại trong một cái ao nhỏ, trước sau gì thì cũng bị ủng thối". Có lý thật. Hèn chi thấy nụ cười các cụ no tròn và miệng hát nghêu ngao. Bác sĩ thần kinh mà đến đây thì thế nào cũng thất nghiệp !

NÉT VĂN HÓA DI TRUYỀN TRONG DÒNG MÁU VIỆT

Bác sĩ Dean Ornish hiện rất thành công trong chương trình khảo cứu rất khoa học về việc chữa bệnh hòa hợp thể lý với tâm lý. Một trong những sinh hoạt chính của những người tham dự chương trình là gặp gỡ nhau để chia sẻ trong tình thân. Bắc cầu tình thân với người khác sẽ làm cho tính tình được thanh thản, bớt bị căng thẳng. Bởi vì khi bị căng thẳng thì trong cơ thể tiết ra một loại hóa chất gọi là adrnaline, noradrenaline và cortisol. Những chất này như còi hụ tình trạng báo động nguy cấp, mọi nỗ lực chỉ còn dồn vào một động tác duy nhất là đánh hay chạy; mọi sinh hoạt khác bị ứ đọng hoàn toàn: ăn không cảm thấy ngon, đầu hết suy nghĩ được, mạch máu trì trệ, mất kháng tố chống nhiễm trùng nên các tế bào sinh chứng, dễ bị cảm cúm, mất hết hứng khởi...

Như vậy, cô đơn tách lìa cũng là chất độc mà chỉ tình thương mới chữa cứu nổi. "Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn thôi !" Không có con đường nào khác nữa đâu. Bác sĩ Ornish tâm sự: "Tôi càng tìm vun quén cho mình thì càng cô đơn, nhưng khi tôi biết tìm phục vụ người khác thì tôi thấy hạnh phúc hơn nhiều".

Nhìn được như vậy thì người ta mới thích nhạc Jazz. New Orleans là thủ đô loại nhạc này, bộc phát từ những hứng khởi rung cảm tâm hồn hơn là những qui luật ước định. Người chơi nhạc Jazz hay thưởng ngoạn nhạc Jazz đều cần phải mở tâm đóng kín "ao tù" ra mà hòa vào nhịp sống chung của giòng đời tươi mát. Vậy ra New Orleans là một thành phố thu hút du khách sành điệu, biết nhìn ra những nét phản tỉnh tìm lại niềm sinh thú trong một xã hội quá đóng kín khép lại khiến mỗi ngày mỗi nghèo nàn tinh thần ra. New Orleans luôn "giầu có" sinh động với Mardi Gras, với đại hội nhạc Jazz, với những tiệm ăn Pháp nổi tiếng, với Café du Monde, với Superdome, với cầu xa lộ Causeway dài nhất thế giới bác qua Biển Hồ, với cầu Con Cò vươn tay ôm dòng Mississippi uốn lượn vòng quanh thành phố Vành Trăng Lưỡi Liềm ( Crescent City ).

Và bây giờ thì du khách Mỹ thích tìm đến các làng Việt để truy tầm nét văn hóa ẩn mật của dân Việt: tại sao với bằng ấy khổ nạn mà người Việt ít bị điên. Sức chịu đựng bền bỉ từ niềm tin "dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây cứ vững đạo Trời khăng khăng" hòa hợp với nếp sống mở rộng khơi được giòng tình, đã là những nét di truyền trong dòng máu Việt.

Những nét văn hóa gốc này được truyền đạt qua những truyện thiêng bánh dầy bánh chưng tạo được phong thái hoàng vương, sức mạnh từ Trời của Phù Ðổng Thiên Vương, của công tác xây thành Cổ Loa, của Thôi Vỹ với Ngọc Long Toại, của tình duyên Trời xe định giữa Chử Ðồng Tử và công chúa Tiên Dung v.v...

TIN VUI GỬI AO TÙ BỊ Ứ ÐỌNG

Tình trạng trì trệ ứ đọng cũng giống như nước ao tù bị ủng thối dễ làm cho điên, do đóng kín chỉ biết giữ cho mình, mà không mở tới được với dòng sống tuôn chảy. Nhìn như vậy thì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong Ðạo Chúa quả là một Tin Vui Gửi Thời Ðại Mới cho mỗi người. Nếu mình không mở tâm ra thì bác sĩ bắt buộc phải mổ tim thôi.

Thiên Chúa biểu hiện không như một ngôi vị đơn độc, mà là một hiệp thông tình thương như một gia đình có ngôi Cha, ngôi Con, và ngôi Thánh Thần. Ðúng là một chia sẻ cộng đồng băùc cầu tình thân làm nên cây leo hạnh phúc ràng buộc quấn chặt lấy nhau, một khuôn mẫu cân bằng sức khỏe vững như kiềng ba chân, một cảm nghiệm tạo dựng sức mạnh tinh thần.

Ðây cũng chính là cảm nghiệm chung của nhân loại khi vượt qua được cái tôi hạn hẹp mà mở tới chiều kích đại ngã tâm linh. Từ nhân chủng học gọi là nhiệm hiệp ( participation mystique ). Thánh Phao-lô đã sống thật sâu xa niềm hiệp thông này: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi" ( Gl 2, 20 ). Niềm tin này đã tạo ra sức mạnh vượt qua tất cả, và có thể làm được phép lạ như thánh Phao-lô quả quyết: "Tôi có thể làm được mọi sự với Chúa là sức mạnh cho tôi" ( Pl 4,13 ).

Sách Tông Ðồ Công Vụ kể lại phép lạ chữa người què do thánh Phê-rô làm ngay sau khi nhận lãnh Thần Khí Chúa. Mọi người kinh ngạc ùa tới với các Tông Ðồ. Thấy vậy, ông Phê-rô lên tiếng nói với dân: "Thưa đồng bào Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi có thể làm cho người này đi lại được nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi ? Thiên Chúa của các tổ phụ Aùp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Ðức Giê-su... Chính vì lòng tin vào danh Người đã làm cho kẻ anh em nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em." ( Cv 3, 12 – 16 ).

PHÚT MỞ TÂM

Cử chỉ làm dấu của người tin Ðạo Chúa mang đầy ý nghĩa hiệp thông có sức vượt ra khỏi tình trạng tù túng ứ đọng và nhỏ hẹp của con người mình mà hòa được vào dòng sinh lực Thần Linh. Trước khi làm một việc gì, nói điều gì, trước một khó khăn phải đương đầu, mình làm dấu nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, để Chúa hiện diện, hành động và nói năng qua mình. Chính Chúa tác động chứ không còn phải là mình nữa. Như thế thì còn chuyện gì mà không vượt qua nổi. Sự khác biệt là ở Niềm Tin. Phép lạ là ở niềm tin.

Nhìn như vậy thì làm dấu Thánh Giá đúng là một phương cách đơn giản để làm phép lạ, có sức thay đổi tất cả. Mình thực hành ngay một cử chỉ làm dấu Thánh Giá, làm chậm lại, thật chậm, với tất cả ý thức và niềm tin: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen". Và từ nay mình sẽ cảm nhận được sức mạnh của cử chỉ làm dấu Thánh Giá trước bất cứ công việc gì.

Lm. Anrê Dũng Lạc TRẦN CAO TƯỜNG


THÔNG TIN:

THÔNG TIN MỚI VỀ CHÁU BÉ HÀ LÊ MỸ TIÊN BỊ BỆNH TIM

Ngày thứ hai 4.6.2001, GOSPELNET nhận được E-Mail của thầy Phó Tế Ðỗ Minh Trí từ Giáo Xứ Hữu Phước, tỉnh Bà Rịa gửi về với nội dung như sau:

"Anh Uy và GOSPELNET thân mến, em có một trường hợp một giáo dân trong xứ, trước đây là Ban Ðiều Hành Giới Trẻ, đang gặp một trường hợp ngặt nghèo, xin nhờ anh có cách nào giúp đỡ. Em xin đăng nguyên văn bức thư của họ và xin được chú thích thêm: họ lập gia đình năm 1998, em có tham dự lễ cưới, có được một cháu gái đầu lòng sinh năm 1999, cháu này thì khỏe mạnh, cháu thứ hai thì bị bệnh tim nặng. Dưới đây là bức thư:

Cháu bé tên là Ma-ri-a HÀ LÊ MỸ TIÊN Sinh ngày 27.11.2000, cha là Phê-rô Hà Văn Ðào, sinh năm 1967, mẹ là Ma-ri-a Lê Thị Bích Trang, sinh năm 1973, hiệân cư ngụ tại đường 27, xóm Thánh Mẫu, Giáo Xứ Hữu Phước, hạt Bình Giả, Giáo Phận Xuân Lộc, thôn Vinh Sơn, xã Nghĩa Thành, huyện Châu Ðức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bé bị bệnh tim bẩm sinh: Thông liên thất, còn ống động mạch và bị cao áp phổi. Cho nên Bé rất là dễ bị viêm phổi. Lúc đầy tháng, bé bị viêm phổi, đã điều trị tại bệnh viện tỉnh Bà Rịa; ngoài ra còn đi bác sĩ tư bốn đợt để trị bệnh ho. Khi bé được 4, 5 tháng tuổi thì nằm điều trị tại bệnh viện Nhi Ðồng II, Sài-gòn, do chứng bệnh viêm phổi nặng và phải theo dõi tim được 32 ngày thì chuyển qua Viện Tim, ở đây bác sĩ nói phải mổ gấp cho bé, để lâu sẽ ảnh hưởng đến tính mạng.

Thế nhưng hoàn cảnh gia đình của cha mẹ cháu còn gặp nhiều khó khăn túng thiếu, hiện bây giờ nhà ở chưa có, chỉ có 3 công rẫy tạm thời, đang cất cái chòi lá ở đó mà sinh sống trên mảnh đất ít ỏi ấy, thu nhập hàng năm chẳng được bao nhiêu, phải đi làm mướn thêm, chắt chiu lắm cũng không đủ trang trải cho cuộc sống trong gia đình, nợ nần ngày càng chồng chất thêm. Chẳng biết lấy tiền đâu mà chạy chữa cho bé. Trên đây là bệnh tình cũng như hoàn cảnh của gia đình bé. Không biết rồi đây bé ra sao ? Có tiền chữa bệnh để bé được hồi phục hay không ? hay là mặc cho số phận "Trời sinh voi thì sinh cỏ" ? Lẽ nào mình cầu nguyện hoài mà Chúa không thương đến đứa bé bất hạnh phải không ?"

THÔNG TIN THÊM VỀ CHÁU BÉ NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY BỊ BỆNH TIM

Chiều ngày thứ sáu 8.6.2001, soeur Thảo, Dòng Ða-minh Rosa Lima đã cùng với ba của cháu bé đến gặp chúng tôi nhận số tiền 900 USD để vào Viện Tim đóng góp Viện Phí, số tiền 950 USD còn lại do Viện Tim tài trợ. Bạn MK Thanh Dung là y tá của Viện Tim đã tận tình giúp gia đình cháu bé đưa cháu vào tái khám lần cuối trước khi được bác sĩ Phương lên lịch mổ trong tuần tới. Tính cho đến hôm nay, theo như tổng kết từ GOSPELNET số 11, Quỹ Mổ Tim cho cháu đã nhận được 1.110 USD + 750.000 VND và sẽ nhận được 50 CND.  Như vậy số tiền quyên góp đã dôi ra được 210 USD + 750.000 VND chưa kể phần 50 CND có thể sẽ nhận được thêm. GOSPELNET quyết định chuyển số tiền dôi ra này sang Quỹ Mổ Tim cho cháu bé Hồ Thị Minh Ngọc để cháu cũng sẽ sớm có đủ được số tiền Viện Phí mổ tim.

THÔNG TIN THÊM VỀ QUỸ MỔ TIM DÀNH CHO CHÁU HỒ THỊ MINH NGỌC

Theo E-Mail của bạn MK Phạm Huỳnh Cúc gửi về vào cuối ngày thứ sáu 1.6.2001, GOSPELNET xin được sơ kết số tiền trợ giúp cho bé Minh Ngọc được mổ tim như sau:

Sơ kết đợt 1 ( GOSPELNET 11 ):      445 USD ( sẽ gửi về ) + 2.550.000 VND ( đã nhận được )

Bạn Tâm Ca Nguyễn Quốc Long:              30 USD

Hạn bạn Tâm Ca Bính và Trúc Hà:            50 USD

Sơ kết đợt 2 ( GOSPELNET 12 ):      525 USD ( sẽ gửi về ) + 2.550.000 VND ( đã nhận được )

Chuyển từ Quỹ Mổ Tim bé Vy:          210 USD + 750.000 VND

Sơ kết đợt 3 ( GOSPELNET 13 ):      735 USD + 3.300.000 VND               

THÔNG TIN MỚI VỀ BẢO VỆ SỨC SỐNG

Sáng thứ ba 5.6.2001, qua Sr. Nguyễn Thị Hồng Quế, Dòng Ða-minh Tam Hiệp, GOSPELNET lại giới thiệu được một trường hợp người Công Giáo muốn kín đáo giữ lại bào thai đã được 12 tuần, và sau này cũng sẵn sàng nuôi cháu bé. Tạ ơn Chúa và biết ơn cơ sở đã nhận chăm sóc trợ giúp.

THÔNG TIN MỚI VỀ MỘT TÂN TÒNG BỊ NHIỄM TRÙNG MÁU

Theo sự hướng dẫn của các soeurs Dòng Ðức Bà Truyền Giáo, ngày 23.5.2001, chúng tôi đã vào Trại 1, Khu Huyết Học, Bệnh Viện Chợ Rẫy để cử hành Bí Tích Thánh Tẩy cho chị Ma-ri-a TRẦN THỊ TUYẾT, và sau đó đã trao thêm Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân và Bí Tích Mình Máu Thánh Chúa như "của ăn đàng" lúc nguy tử. Chị Tuyết sinh năm 1962, cư ngụ và lao động ở khu Kinh Tế Mới Xuân Lộc, vốn là người Phật Giáo đã lập gia đình với một người Công Giáo 14 năm nay, có 3 con còn nhỏ. Chị bị bệnh nhiễm trùng máu trầm trọng, lúc nào cũng sốt cao, có lúc mê sảng, da vàng và người sưng phù.

Ngoài một tấm ảnh Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp được tặng để đặt trên đầu giường bệnh, GOSPELNET cũng trợ giúp ngay cho anh chị số tiền 500.000 VND mà bạn MK Quốc Duy vừa chia sẻ. Kỳ diệu thay, theo xét nghiệm của các bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy ngày 6.6.2001, căn bệnh của chị đã đột nhiên nhanh chóng thuyên giảm, chỉ còn phải truyền 4 bịch máu mỗi ngày, thay vì 10 bịch máu như trước. Xin mọi người gần xa hiệp ý với GOSPELNET cầu nguyện đặc biệt cho chị được ơn chữa lành do lòng thương xót của Thiên Chúa và Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Cũng xin mọi người tiếp tục chia sẻ vật chất để nâng đỡ anh chị trong lúc ngặt nghèo, tiền viện phí và thuốc men mỗi ngày hết khoảng 1 triệu VND.

THÔNG TIN MỚI VỀ CHỊ BÙI THỊ NGỌC LAN BỊ UNG THƯ

GOSPELNET vừa nhận được tin báo chị tân tòng Ma-ri-a BÙI THỊ NGỌC LAN đã qua đời vào ngày 5.6.2001. Chị Lan sinh năm 1955, góa chồng, bị ung thư vú thời kỳ cuối cùng, nhà ở khu Kinh Tế Mới Lê Minh Xuân, xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh. Qua lời kêu gọi của cha Mai Văn Hiền, GOSPELNET số 2 và 3 đã có thông tin xin trợ giúp và đã nhận được sự chia sẻ chân tình, mau mắn và rất rộng rãi của hai bạn MK Ðịnh – Châu và gia đình bạn Lộc thuộc ca đoàn Bê-linh.

Chúng tôi đã cùng đi với một số giáo dân nhiệt thành của Xóm % Giáo Xứ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn và các soeurs Tu Hội Dâng Truyền ( OMMI ) đến viếng xác vào sáng ngày 8.6.2001 và cùng với cha Mai Văn Hiền, cha Phạm Văn Tịnh và những người hàng xóm cả lương lẫn giáo tốt bụng lo liệu mọi mặt Phụng Vụ và tang ma cho chị Lan. Kính mong mọi người gần xa chia sẻ thêm cho 4 người con của chị có thể vượt qua nghịch cảnh côi cút. Trước mắt, GOSPELNET đã trợ giúp ngay cho tang gia số tiền 600.000 VND cùng với 600.000 VND của các soeurs Tu Hội Dâng Truyền chia sẻ. Cũng xin mọi người góp lời cầu nguyện cho chị với một Kinh Kính Mừng.

THÔNG TIN VỀ CÁC BẠN SINH VIÊN ÐANG CẦN VIỆC LÀM DỊP HÈ

Họ và tên: Nguyễn Thị Hoàng Ngọc, sinh ngày 28.10.1971 tại Pleiku – Gia Lai
Sinh viên: lớp D00VT. Chỗ ở hiện nay: phòng E 2 Ký Túc Xá Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông.
Nguyện vọng: dạy kèm Anh Văn lớp 6 – 9.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Kim Nhung, sinh ngày 18.11.1982 tại Buôn Mê Thuột.
Ðịa chỉ thường trú: phòng I 2 Ký Túc Xá Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông.

Khả năng: dạy các môn Toán – Lý – Hoá lớp 4 – 12.

Họ và tên: Nguyễn Thị Mỹ Loan, sinh ngày: 9.3.1982 tại Ninh Thuận.

Chỗ ở hiện nay: phòng 406 Ký Túc Xá Tài Chính Kế Toán, Phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9.
Khả năng: dạy anh Văn lớp 6 – 9.

Họ và tên: Trần Thị Mai, sinh ngày 1.2.1982.
Chỗ ở hiện nay: phòng E 2 Ký Túc Xá Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông.
Khả năng: bằng B Anh Văn, có thể dạy kèm các môn lớp 4 – 12.

Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Chi, sinh ngày 28.1.1982 tại Ninh Thuận.
Chỗ ở hiện nay: phòng E 6 Ký Túc Xá Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông.
Khả năng: có thể dạy kèm Toán – Hoá – Anh Văn cấp 2 và 3.