Giải Nghĩa Lời Chúa Năm C

Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chúa Nhật 34 Thường Niên Năm C

Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua

Ðức Giêsu Làm Vua Trên Thánh Giá

(2 Samuel 5,1-3; Thư Colosê 1,12-30; Tin Mừng Luca 23,35-43)

 

Phúc Âm: Lc 23, 35-43

"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái".

Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

 

Suy Niệm:

Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua

2 Samuel 5,1-3; Thư Colosê 1,12-30; Tin Mừng Luca 23,35-43

Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Giáo hội muốn mừng trước lễ sẽ diễn ra và được cử hành cực kỳ long trọng vào lúc thời gian tận cùng khi mà Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang thâu hồi tất cả tạo vật được cứu độ đưa vào trong hạnh phúc trường sinh. Hơn nữa, Giáo hội muốn đặt ngày trọng đại ấy trở nên ngọn Hải đăng chói sáng hướng dẫn con thuyền Hội Thánh vượt biển trần gian mà không bao giờ lạc hướng... Nói cách khác Giáo hội ao ước càng tiến xa trên đường đời chúng ta càng nhìn thấy ảnh hưởng và uy quyền của Chúa Kitô càng ngày càng tỏ hiện cả chiều rộng và chiều sâu. Muốn như vậy chúng ta phải hiểu rõ tước hiệu làm Vua và thực quyền thống trị của Chúa Kitô là gì, để do đó chúng ta biết sống ở trong Nước Người và làm cho Nước Người luôn lan rộng thêm.

 

1. Ðavít, Hình Ảnh Báo Trước Về Chúa Kitô Vua

Bài sách Samuel nhắc lại chuyện Ðavít đã trở thành vua Israel như thế nào. Nó cho chúng ta biết nguồn gốc Vương Quyền của Chúa Kitô vì chính Người vẫn được dân Cựu ước chờ đợi như là Con Vua Ðavít sẽ đến trị vì trên Dân Chúa.

Vậy Ðavít bấy giờ mới chỉ là vua xứ Giuđa. Các chi tộc Israel ở phía Bắc vẫn chưa công nhận Vương Quyền của ông. Họ còn lưu luyến nhà Saulê. Nhưng hai cuộc ám sát xảy ra đã khiến họ đổi ý... Ishbaal con của Saulê bị sát hại sau khi vị tướng của Israel là Abner bị giết. Ðầu mục các chi tộc kia liền đến Hêbron yết kiến Ðavít và xin qui phục vương quyền của ông. Chúng ta hãy lưu ý những lý lẽ họ đã đưa ra:

+ Ngài (tức là Ðavít) cũng là cốt nhục với chúng tôi.

+ Ngài đã từng là tướng triều Saulê, Vua nước chúng tôi.

+ Ngài đã được Thiên Chúa chọn để chăn dắt và lãnh đạo dân Người.

Ðó không phải là lời lẽ của những người đầu hàng; nhưng là những lời có tính toán và đặt điều kiện. Nói đúng hơn, những lời này cho thấy các đòi hỏi tiên quyết nơi một vị Vua của Israel... Ông phải có cốt nhục với đồng bào của ông; ông đã phải vào sinh ra tử cho Ðất nước của ông; và nhất là ông phải được Thiên Chúa chọn; vì làm vua nơi dân Chúa không phải như nơi các dân tộc của những quốc gia khác, nói đến Vua Chúa là phải nghĩ ngay đến cai trị và lãnh đạo. Còn nơi Israel, làm vua trước hết là chăn dắt dân như mục tử và phải hiểu việc lãnh đạo ở đây theo cung cách của kẻ chăn chiên.

Ðavít hội đủ những điều kiện ấy. Ông là cốt nhục với Israel. Ông đã vào sinh ra tử khi còn ở triều đình Saulê để chống quân Philitinh. Và ông đã được xức dầu là chứng Thiên Chúa đã chọn ông và ông đã nhận được thần trí của Thiên Chúa... Người ta không sợ ông sẽ dùng quyền cai trị như các bạo chúa thời xưa. Bản thân ông đã là mục tử. Dáng điệu của ông hiền lành khiêm nhu. Mọi nơi đều ca ngợi lòng quảng đại của ông ngay đối với cả địch thù.

Ðavít hiểu ý các đầu mục Israel. Ông chấp nhận ý kiến của họ và ông ký kết với họ một giao ước ở Hêbron, trước nhan Thiên Chúa. Và họ đã xức dầu tấn phong ông làm vua các chi tộc ở phía Nam.

Chúng ta có thể thắc mắc vì sao có thể xức dầu cho Vua mình được. Nhưng xức dầu ở đây chỉ là nghi thức công nhận quyền làm Vua của vị đã được xức dầu. Chính lần được xức dầu do "Người của Thiên Chúa", tức là do vị tiên tri của Người mới đáng kể. Và Ðavít đã được Samuel xức dầu ân sủng đó khi Thiên Chúa đã quyết định từ bỏ Saulê. Kể từ ngày đó Ðavít đã là Người Chúa chọn và đã mang thần trí của Người. Hôm nay các đầu mục Israel làm lại nghi thức xức dầu không phải để ban ân sủng cho Ðavít nhưng để công nhận ân sủng đã có sẵn ở nơi ông. Và tất cả những điều này đều có ý nghĩa để nói về Chúa Kitô Vua. Người đã được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần... nhưng có thể nói, một cách mầu nhiệm quá như trường hợp của Ðavít tại nhà ông, trong vòng thân mật và kín đáo, lúc ông còn nhỏ tuổi. Và cũng như Ðavít phải vào sinh ra tử cho dân trước khi được dân công nhận, thì Ðức Kitô cũng phải đi qua khổ nạn mới đạt tới vinh quang.

Ở đây chúng ta không thấy nói rõ Ðavít đã kết ước với Israel như thế nào. Nhưng theo ý dân đã biểu lộ trong dịp xức dầu đặt Saulê làm Vua (1S. 8,10-17), các đầu mục Israel hẳn đã nhấn mạnh đến việc Ðavít phải xuất chinh đi trước và giao chiến các cuộc chiến của họ. Cũng như theo những sự việc xảy ra sau này, dường như họ chỉ công nhận vương quyền của Ðavít nhưng chưa muốn sát nhập với Giuđa và cũng chẳng hứa sẽ tùng phục người kế vị Ðavít. Tức là họ chỉ công nhận Ðavít là Vua của họ khi Ðavít hứa luôn xuất chinh đi trước họ.

Những điều này cũng vậy sẽ cho chúng ta nhiều yếu tố để tìm hiểu vương quyền của Chúa Kitô. Có thể nói vương quốc của Người chỉ có ở nơi Người. Cũng như vương quốc của Ðavít chỉ có ở nơi Ðavít vì Israel và Giuđa một phần nào vẫn chưa muốn hoàn toàn là một Nước như ở nơi chúng ta còn quá nhiều yếu tố cách biệt và chia rẽ. Và vương quyền mà Israel công nhận nơi Ðavít, họ không sẵn sàng công nhận nơi người kế vị thành ra đó là vương quyền không chia sẻ và truyền ngôi. Ðiều này cũng cho thấy trước tính cách bất khả chia sẻ của vương quyền nơi Chúa Kitô. Nhưng điều chú ý nhất trong giao ước ký kết giữa Ðavít và Israel là buổi lễ được đặt trước nhan Thiên Chúa, để công nhận việc giữa loài người với nhau chỉ có giá trị nếu Thiên Chúa đảm bảo. Chính Người là cánh tay xây dựng mọi công trình tốt đẹp của loài người, và nếu Người không xây thì công việc của các tay thợ nề đều vô ích và luống công. Nước của Chúa Kitô Vua cũng vậy. Ðó là công trình của Thiên Chúa và hoàn toàn lệ thuộc Người; nên không thể lấy các quan niệm về những vương quốc thế gian mà hiểu. Chúng ta phải có những quan niệm của Thiên Chúa để hiểu về Nước Chúa Kitô. Và vì thế chúng ta không sợ nói đến tước hiệu Vua Kitô ở bất cứ hoàn cảnh nào vì Nước của Người không thuộc về thế gian này nên không được hiểu theo lẽ thế gian.

Dù sao bài sách Samuel hôm nay cũng đã cho chúng ta thấy một trường hợp làm vua rất đặc biệt. Câu chuyện Ðavít được công nhận làm Vua có nhiều yếu tố giúp chúng ta hiểu trường hợp làm Vua của Chúa Kitô. Ông Vua mục tử Ðavít đầy nhân ái và đạo đức đã là hình ảnh báo trước về Vua Thiên Sai sẽ đến cứu dân và xây hạnh phúc cho dân Chúa. Cả hai đã được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng vương quyền của cả hai đều phải vào sinh ra tử cho dân mới được dân công nhận. Không phải rồi sau đó cả hai vương quyền đều đã trị vì trên dân theo kiểu các quyền bính thế gian, nhưng vai trò của các người là bảo hộ bênh vực để dân Chúa được bình an và hạnh phúc. Vương quyền ấy là quan hệ giữa người với người hơn là biểu thị thành thể chế có thể nhìn thấy được vì Nước của Ðavít cũng chỉ rõ ràng ở nơi ông mà thôi.

Chúng ta ghi nhận những tư tưởng này để xem Ðức Kitô đã thể hiện hình ảnh báo trước về vương quốc của Người như thế nào?

 

2. Ðức Giêsu Làm Vua Trên Thánh Giá

Ai cũng biết suốt đời Ðức Giêsu chẳng có vẻ gì là một ông Vua. Người còn nhất mực từ chối mỗi khi dân chúng có ý tưởng tôn Người làm Vua. Nhưng bỗng dưng Người có một thay đổi bất ngờ. Hôm vào Giêrusalem, Người muốn tỏ ra mình là một ông vua thái hòa. Người cỡi lừa, ung dung để cho người ta lấy lá, lấy áo lót đường cho Người đi, và Người chấp nhận để cho người ta tung hô mình là Con Vua Ðavít, vua của Israel.

Nhưng trong cuộc rước ấy, Người vẫn âm thầm. Và Người cũng không có một cử chỉ hoàng đế nào trong dịp nô nức ấy. Thế rồi Người bị nộp, bị trói, bị đánh, bị điệu ra trước tòa. Chính ở đây và từ đây Người mới có thái độ làm vua.

Chúng ta hãy hạn chế tư tưởng trong khuôn khổ bài Tin Mừng hôm nay. Có quá nhiều yếu tố để chúng ta còn phải đi tham khảo ở những nơi khác trong Kinh Thánh.

Ðức Giêsu bấy giờ đã bị đóng đinh trên thập giá ở giữa hai tên gian phi. Như để cho người ta thấy Người không phải như hai kẻ kia, tác giả Luca lập tức đã viết rằng: "Bấy giờ Ðức Giêsu nói: Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Lời nói này khẳng định vị trí của Ðức Giêsu không những ở giữa hai tên gian phi, mà còn ở giữa tất cả mọi người. Cả nhân loại là tội nhân, duy mình Người là Ðấng Công Chính có khả năng cầu xin ơn tha tội cho mọi người hết thảy.

Xếp đặt vị trí xong, tác giả Luca lần lượt cho chúng ta thấy thái độ của mọi hạng người... Trước hết có dân. Họ đứng nhìn. Luca có cảm tình với họ. Ông không coi họ là đám dân chúng đã la ó xin đóng đinh Ðức Giêsu. Ông gọi họ là dân để tỏ ý coi họ như dân Chúa, dân mà Chúa muốn cứu vớt và tha thứ tội. Họ đứng nhìn để xem công việc của Thiên Chúa. Họ thấy gì?

Các đầu mục thì nhạo báng mà rằng: nó đã cứu những ai khác, thì nó hãy cứu lấy mình nếu nó là Ðức Kitô của Thiên Chúa, Ðấng đã được chọn. Họ tỏ ra thông thái, nhưng thật ra sự thông thái này lại lên án họ vì đó là sự thông thái mù tối. Họ biết Ðức Giêsu đã cứu chữa nhiều người.

Ðó là dấu sức mạnh của Thiên Chúa đậu ở nơi Người. Người thật là Ðấng Kitô, là vị được Thiên Chúa chọn. Lẽ ra họ phải bắt chước các đầu mục Israel ngày xưa khi biết Thiên Chúa đã chọn Ðavít thì đến công nhận vương quyền của ông. Ðàng này họ chưa coi việc Ðức Giêsu cứu vớt những người khác là dấu hiệu chắc chắn. Họ muốn Người cứu chính mình nữa và coi hành vi này mới có giá trị quyết định. Họ đúng là kẻ thông thái mù quáng, khôn ngoan theo lẽ thế gian xét mọi việc không ở dưới khía cạnh bác ái và cứu thế nhưng theo mức độ ích kỷ và vinh thân. Vì hẹp hòi và xấu bụng, họ không ngờ đã muốn cho vị hoàng đế của dân Chúa cũng phải như họ là ích kỷ và trước hết phải lo cho bản thân mình. Họ không xứng đáng với Ðức Giêsu.

Hạng người thứ ba cũng giống như họ. Ðó là lính tráng, những người Rôma đến cai trị Do Thái. Họ tiêu biểu cho lương dân ở dưới chân thập giá Ðức Giêsu. Họ không thể có suy nghĩ cao thượng hơn các đầu mục Do Thái. Họ muốn rằng: nếu là vua Do Thái, thì Người phải cứu lấy mình. Tâm tư của hai hạng người trên, của cả Do Thái lẫn lương dân, được phụ họa đúc kết và vọng lên một cách mãnh liệt trong lời mắng nhiếc của một trong hai kẻ gian phi: "Phải chăng mày là Kitô, hãy cứu lấy mình và chúng ta với".

Ðó là lời thách thức ghê tởm. Nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên" còn ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất" bây giờ ở đâu? Người ta chưa hiểu Ðức Giêsu. Người ta quên hình ảnh Vua Ðavít chịu oan uổng trong đền vua Saulê. Người ta không nhớ các lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ đau khổ sẽ thống trị. Bao nhiêu lời Kinh Thánh báo trước về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế dường như đã vô ích hoàn toàn.

Không, tiếng nói của kẻ tội lỗi to thật, dữ thật, nhưng không phải là tiếng nói cuối cùng. Kẻ gian phi bị treo ở phía bên kia đã lên tiếng: "Mày không kính sợ Thiên Chúa sao, ngay lúc mày cũng mắc đồng một án?" Nghĩa là đây là lúc để nhớ đến Thiên Chúa và kính sợ Người, lúc người ta gặp hoạn nạn, đau thương và nhất là sắp chết. Không được lăng mạ, lộng ngôn hay nói lời nào hư hốt nữa. Phải có tình liên đới, phải biết nhận lỗi mình và cầu xin ơn tha thứ. Thế nên, người ấy đã nói tiếp: chúng ta đáng tội, nhưng, Người không hề làm điều gì trái.

Vì sau người ấy đã nói được như vậy? Vì đã có giờ quan sát Người trên đường thập giá hay vì từ nãy đến giờ đã nghe lời những hạng người kia. Họ trách mắng Người, nhưng bao giờ cũng để hở ra những tư tưởng thật đáng suy nghĩ. Tất cả đều đã mở miệng bằng những câu: nếu là Kitô, nếu là Ðấng Thiên Chúa chọn, nếu là vua Do Thái..., vì sao lại nghi vấn như thế? Và hết thảy đều đã tha thiết muốn thấy ơn cứu độ, nên đã nói: hãy cứu lấy mình, hãy cứu lấy chúng ta nữa.

Chúng ta không dám quyết người kia đã có thể suy nghĩ như vậy để có thể làm một bước "liều" mà đa số những người kia chưa gần sự chết và chưa thấy khẩn trương cầu ơn cứu độ nên đã không làm được. Còn người này, giống như Pascal nói, có liều cũng chỉ có lợi chứ không thiệt gì. Nên y đã liều tin Ðức Giêsu là công chính và đã diễn tả niềm tin dấn thân ấy trong câu: Lạy Ðức Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài đến trong Nước của Ngài: Y trông cậy sự bảo hộ, chiếu cố của Người một cách thật cảm động và thành khẩn. Và Ðức Giêsu đã nói với người ấy: "Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta".

Ðây không phải là lời lẽ của chính Thiên Chúa ư? Ðã bao lần trong cuộc sống, khi lấy uy tín của Thiên Chúa để giảng dạy, Ðức Giêsu đã bắt đầu tuyên bố bằng câu: "Quả thật, Ta bảo các ngươi". Người tuyên bố bình thản, chắc chắn. Người nói là làm, nên mới có chữ: "hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta". Người dùng kiểu nói: "ở trên thiên đàng làm một với Người" để đáp lại lời xin được Người nhớ đến khi Người đến trong Nước của Người, khiến chúng ta thấy lòng quảng đại của Người vượt quá lời xin của Người kia. Anh ta chỉ xin Người nhớ đến anh; nhưng Người đã cho anh ở làm một với Người. Anh chẳng hiểu rõ Nước của Người là gì; nhưng Người đã cho anh biết đó là thiên đàng nơi người công chính được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa.

Vậy, Ðức Giêsu thật là vua. Người làm vua trên thánh giá, tức là trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình mà tin Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa mà tin thì được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời tiên tri về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế quá sự chờ mong của mọi người, vì trên thánh giá, không những Người là Vua mục tử hơn Ðavít mà còn là Người Tôi Tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.

Tuy nhiên thành thật mà nói bài Tin Mừng của Luca chưa nói hết mọi khía cạnh về việc Chúa Kitô làm vua đâu. Còn một khía cạnh rất quan trọng phải đi đôi với khía cạnh cứu chuộc mà Luca chưa nói và không có điều kiện để nói ở đoạn văn này... Bài thư Phaolô hôm nay bổ khuyết cho chúng ta.

 

3. Ðức Giêsu Là Ðệ Nhất Vô Song

Phần lớn đây là một khúc trong ca vãn về Chúa Kitô. Phaolô viết gởi giáo dân Colôsê đang bị dao động về đức tin. Có nhiều người đến nói với họ rằng: Chúa Kitô không phải là đệ nhất vô song đâu? Còn có các thiên phủ, ông sao này, ông sao kia; và còn có nhiều bậc tiên tri và giáo chủ khác. Phaolô nói với giáo dân Colôsê, đừng tin những chuyện nhảm nhí ấy; và hãy tạ ơn Thiên Chúa đã kéo chúng ta ra khỏi quyền lực tối tăm và chuyển chúng ta vào Nước của Con chí ái Người. Rồi Phaolô làm chứng Ðức Kitô là vua vì vừa sáng tạo vừa cứu chuộc.

Chúng ta không cần nhấn mạnh lý lẽ sau vì hai bài Kinh Thánh trên đã cho thấy Ðức Giêsu là vua trong mầu nhiệm cứu thế, gỡ dân ra khỏi tội lỗi. Ở đây chúng ta chỉ cần nhớ: Phaolô chú ý đến việc phục sinh. Chính mầu nhiệm sống lại đã làm Ðức Giêsu trở thành trưởng tử giữa các vong nhân để ai theo Người và nhận sự lãnh đạo của Người và sẽ được Người cho khỏi chết trong tội lỗi mà được sống lại trong ân sủng.

Nhưng ở đây chúng ta phải để ý nhất là đến địa vị của Ðức Giêsu là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Thực tế Người đã không sinh ra trước hết mọi loài đâu. Người là con vua Ðavít mà! Nhưng tuy đã không sinh ra trước hết, Người vẫn là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì mọi sự đều được tạo thành nhờ Người và cho Người. Không những Người là lý do để Thiên Chúa dựng nên tất cả, như Thiên Chúa đã dựng nên vạn vật vì con người, và con người Adong cũng chỉ là hình ảnh của con người Giêsu Kitô; nhưng hơn nữa chính trong Người mà vạn vật được tác thành, dù là thiên tòa, thiên phủ... Như vậy tất cả đều là của Người, Người là vua vũ trụ. Vạn vật là chiên của Người. Những chiên này vì tội lỗi đã xa lạc, Người đã thí mạng để chuộc chúng lại và làm vua chúng một lần nữa sau khi đã là vua chúng vì đã tạo dựng nên chúng.

Chúng ta và thụ tạo ngày nay chỉ có thể lại được sự sống của Người khi chấp nhận lễ hy sinh của Người là mục tử tốt ở nơi thập giá... Chính Người đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta nơi bàn tiệc thánh thể. Ở đây nếu chúng ta có lòng thống hối ăn năn và cầu xin tin tưởng như "người trộm lành", chúng ta sẽ được ân sủng của Người, được chính Người cho ta được làm một với Người, để Người là Ðầu của thân thể ta, giúp ta thánh hóa thêm tâm hồn và đời sống, làm cho ảnh hưởng và Nước Người lan rộng thêm. Ðó là mục tiêu chúng ta phải nhắm tới trong ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay.

 

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page