Chứng Nhân Hy Vọng

(Các Bài Giảng Tĩnh Tâm

của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Rôma)

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


- 07 -

Bài Suy Niệm thứ bảy

Lời Ta Là Tinh Thần Và Là Sự Sống

Trở thành Lời Chúa

 

Khi tôi còn là chủng sinh tại tiểu chủng viện An Ninh của Giáo Phận Huế, linh mục giáo sư Giuse M. Nguyễn Văn Thích đã giúp tôi hiểu tầm quan trọng của việc luôn luôn đem theo Phúc Âm trong mình. Cha Thích theo đạo Công giáo. Thân phụ của Ngài là một vị Thượng Thư, một nhà trí thức Nho Giáo. Ngài luôn luôn đeo trước ngực cuốn Kinh Thánh Tân Ước nhỏ, giống như khi đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Khi Ngài rời chủng viện để lãnh nhận một nhiệm vụ khác, Ngài đã để lại cho tôi kho tàng quý báu đó.

Gương sáng của vị linh mục thánh thiện này luôn sống động trong tâm hồn tôi và đã giúp tôi rất nhiều trong khi ở tù, nhất là trong suốt thời gian bị biệt giam. Trong những năm đó tôi đã tiến bước được vì "Lời Chúa là ngọn đèn cho bước chân tôi", "là ánh sáng trên đường đời tôi" (x. Tv 119,105).

Chúng ta cũng biết rằng Thánh Giêrôlamô cũng như Thánh Nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu cũng đã luôn luôn mang theo sách Phúc Âm trong mình, gần con tim. Nhưng chính nền văn hóa của tôi nêu bật giá trị duy nhất của Kinh Thánh. Tại Á Châu người dân rất kính trọng các lời nói của Ðức Khổng Tử và đồ đệ của người là thầy Mạnh Tử. Lời của các vị không phải người ta để bất cứ ở đâu, nhưng đội trên đầu như dấu chỉ lòng tôn kính.

 

Lời Chúa và các lời khác

Trong lúc biến hình trên núi Tabo, Chúa Giêsu tỏ lộ vinh quang của Ngài cho các Tông Ðồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Từ đám mây người ta nghe có tiếng phán: "Ðây là con Ta, Người đã được tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35).

Các lời nói của Chúa Giêsu không như những lời nói của con người. Những kẻ nghe Ngài nhận ra ngay điều đó: "Ngài dạy dỗ họ như kẻ có quyền bính chứ không như các ký lục của họ" (Mt 7,29).

Không phải vô tình mà Phúc Âm hấp dẫn cả những người ngoài Kitô giáo. Chẳng hạn ông Gandhi đã viết như sau: "Khi tôi đọc các Phúc Âm và tới Bài Giảng Trên Núi, tôi bắt đầu hiểu sâu đậm giáo huấn Kitô. Giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi vang dội một cái gì mà tôi đã học được khi còn bé, một cái gì xem ra thuộc về bản thể của tôi và cho tôi thấy nó hiện thực trong cuộc sống thường ngày của tôi... hãy đến giải khát nơi Bài Giảng Trên Núi" (Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Tascabili economici, Newton, 1993, tr.52).

Sự kiện các lời của Chúa Giêsu có sức năng động và sự thâm trầm mà những lời khác không có được, dù đó là lời của các triết gia, chính trị gia hay thi sĩ. Các lời của Chúa Giêsu là "Lời ban Sự Sống", như thường được định nghĩa trong Phúc Âm. Chúng chứa đựng, diễn tả, và thông truyền một sự sống, đúng hơn "sự sống vĩnh cửu", sự sống tràn đầy.

Tôi rất thích chương 6 của Phúc Âm Thánh Gioan. Với việc mặc khải về Bánh Hằng Sống, con đường trở nên khó khăn hơn và từ lúc đó nhiều môn đệ bỏ Chúa Giêsu. Khi đó Ngài mới hỏi Mười Hai Tông Ðồ "Có lẽ các con cũng muốn ra đi chăng?" Thánh Phêrô trả lời: "Lạy Chúa, chúng con đi theo ai bây giờ? Chỉ có Thầy có lời ban sự sống đời đời" (x. Ga 6,67-68).

Tất cả sức mạnh và sự mỏng dòn của niềm Hy Vọng nơi chúng ta tùy thuộc các lời đó.

 

Lời Chúa và Thánh Thể, một bàn tiệc độc nhất

Ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã minh chứng cho thấy Lời của Thiên Chúa có hiệu quả tức thời. "Thiên Chúa phán... - chúng ta đọc trong sách Sáng Thế - và ánh sáng liền có". "Thiên Chúa phán... và xảy ra như vậy" (St 1,3.7.9.11.15.24.30). Sau khi nguyên tổ sa ngã, với lời hứa cứu độ, Lời của Thiên Chúa trao ban lại Hy Vọng được cứu rỗi cho các vị (St 3,15). Với ơn gọi của Tổ Phụ Abraham, Thiên Chúa tạo cho mình một dân tộc. Và Ngài uốn nắn lịch sử với các lời của Ngài: Thiên Chúa nói với các tổ phụ và thông truyền cho các vị các lời hứa của Ngài. Ngài kêu gọi ông Môisen giải thoát dân Ngài khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, chuyển đạt lời chân lý tới họ qua các ngôn sứ, trong khi chờ đợi Ðấng Cứu Thế, Vị Cứu Tinh duy nhất.

Nhưng Chúa Giêsu mới chính là Ngôi Lời tuyệt diệu. Hiến chế "Lời Chúa" khẳng định: "Chính Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, được sai tới như "là người giữa con người" (Thư gửi Diogneto, e.VII, 4; Funk, Các Giáo Phụ Tông Ðồ, I, tr.403), nói các lời của Thiên Chúa (x. Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người (x. Ga 5,36; 17,4)" (s. 4).

Ðể có thể hiểu tầm quan trọng của Lời Chúa đối với Giáo Hội, chỉ cần nhắc tới thái độ sống của Giáo Hội trong 2,000 năm qua. Giáo Hội đã "luôn luôn tôn sùng Kinh Thánh như đã tôn sùng chính Mình Chúa Kitô, không bao giờ thiếu sót, đặc biệt trong phụng vụ thánh, trong việc dưỡng nuôi mình bằng Bánh sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ Mình Chúa Kitô và đem phân phát hiến cho tín hữu" (DV 21).

Trong tất cả truyền thống Kitô giáo có mối dây liên kết liên lỉ giữa Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, cả hai là lương thực của Kitô hữu. Origene viết: "Chúng ta không chỉ uống Máu Thánh Chúa Kitô khi nhận lấy Máu Người theo lễ nghi của các mầu nhiệm, mà cả khi tiếp nhận các lời chứa đựng sự sống của Ngài nữa". Thánh Giêrôlamô viết: "Sự hiểu biết Kinh Thánh là của ăn đích thật và là của uống đích thực bắt nguồn từ Lời Chúa". Còn Thánh Ambrôgiô quả quyết: "Uống Máu Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta, cũng như uống các lời của Kinh Thánh: chúng chảy vào mạch máu chúng ta và khi được hấp thụ chúng thấm vào cuộc sống chúng ta".

Thánh Giêrôlamô cũng khẳng định rõ ràng như sau: "Tôi cho rằng Tin Mừng là Mình của Chúa Giêsu và Kinh Thánh là giáo huấn của Ngài. Các lời của Chúa Giêsu: "Ai ăn Thịt và uống Máu Ta (Ga 6,54) có thể được hiểu như vừa liên quan tới mầu nhiệm (Thánh Thể) vừa liên quan tới Mình và Máu của Ðức Kitô là lời của Kinh Thánh (...) Lời của Thiên Chúa là thịt và máu đó của Ðức Kitô đi vào trong chúng ta qua việc lắng nghe".

Hiến chế "Lời Chúa" nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Bánh Lời Chúa là lương thực trao ban sức mạnh, soi sáng trí tuệ, bổ dưỡng ý chí, thắp lên lòng hăng say được đổi mới, và canh tân cuộc sống (s. 23).

Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của tôi về điểm này.

Khi tôi đã mất tất cả và bị giam cầm, tôi đã nghĩ tới chuyện soạn một cuốn cẩm nang giúp tôi sống trong hoàn cảnh này.

Tôi không có giấy mực, nhưng công an cung cấp giấy để tôi viết các câu trả lời trong các cuộc hỏi cung. Thế là từ từ tôi bắt đầu bớt một vài tờ giấy và làm thành một cuốn sổ tay nhỏ, trên đó viết khoảng 300 câu Kinh Thánh mà tôi nhớ thuộc lòng. Lời Chúa, được dựng lại như thế đã là cẩm nang thường ngày của tôi, là kho tàng quý báu tăng cường sức mạnh cho tôi.

 

Ðón nhận và sống Lời Chúa

Nhưng để Lời Chúa có thể làm phát sinh sự sống và đem lại mọi hoa trái, cần phải tiếp nhận và sống Lời Chúa.

Ðứng trước Lời Chúa luôn tiếp xúc và đối thoại, thái độ căn bản đòi hỏi chúng ta là lắng nghe và tiếp nhận. "Hãy lắng nghe Người" là lệnh Thiên Chúa Cha truyền cho các môn đệ đối với Con của Ngài. Ðó là một sự lắng nghe bằng con tim hơn là bằng đôi tai. Thật thế, Lời Chúa chỉ sinh hoa trái nếu tìm được một thửa đất mầu mỡ, hay khi rơi vào trong "một con tim tốt lành và toàn thiện" (x. Lc 8,15).

Nhưng suy niệm Lời Chúa, để cho Lời Chúa thấm nhập tâm trí, hay cầu nguyện với Lời Chúa, để rút tỉa ra từ đó vào suy tư hay quyết định không thôi, chưa đủ. Thái độ lắng nghe Lời Chúa đích thật được thể hiện ra ngoài bằng việc vâng phục, thi hành điều Lời Chúa đòi hỏi. Cần phải để cho Lời Chúa đánh động cho tới Lời Chúa uốn nắn toàn cuộc sống Kitô hữu của mình. Cần phải áp dụng Lời Chúa vào mọi hoàn cảnh đời sống, biến đổi Lời Chúa thành chính cuộc sống, như Thánh Giacôbê đã nói: "Anh chị em hãy thuộc về số những người thực thi Lời Chúa chứ không phải chỉ nghe không mà thôi" (Gc 1,22).

 

Mặc lấy tinh thần Ðức Kitô

Trong thời gian ở trong tù tôi đã viết: "Con hãy tuân giữ một quy luật thôi: Phúc Âm. Hiến Pháp này cao vượt trên tất cả mọi hiến pháp khác. Ðó là luật mà Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông Ðồ (x. Mt 4,23). Nó không khó khăn, phiền phức hay gò bó như các luật khác. Trái lại, nó sinh động, nhân hậu và phấn chấn đối với tâm hồn con. Một vị thánh sống xa Phúc Âm là một vị thánh giả" (Ðường Hy Vọng số 986).

Thật vậy, việc thấm nhập Lời Chúa không chấp nhận cách suy tư và xử thế kiểu con người và dẫn đưa chúng ta bước vào trong một lối sống mới do chính Ðức Kitô khai mở. Ai sống Phúc Âm có thể cùng với Thánh Phaolô tiến tới chỗ "mặc lấy tư tưởng của Ðức Kitô" (1Cr 2,16) và có khả năng đọc ra các dấu chỉ thời đại với chính cái nhìn của Ðức Kitô. Và như thế người đó để lại một ảnh hưởng sáng tạo trên lịch sử, được kinh nghiệm sự tự do đích thật, niềm vui, lòng can đảm sống thực với Tin Mừng và tìm được niềm tin cậy mới nơi Thiên Chúa Cha và mối tương quan đích thực và tình con thảo chân thành, đồng thời hướng đến việc phục vụ con người một cách cụ thể.

Nói cho cùng, Phúc Âm vén mở cho chúng thấy ý nghĩa sâu thẳm của cuộc sống. Như thế rốt cuộc chúng ta biết được lý do tại sao chúng ta sống và tại sao giáo huấn của Ðức Kitô làm cho chúng ta Hy Vọng trở lại.

Kết quả là không phải chúng ta sống nữa, mà là chính Chúa Kitô đến sống trong chúng ta. Qua các lời Kinh Thánh, chính Ngôi Lời ở trong chúng ta và biến đổi chúng ta trong Người: chúng ta trở nên Lời Chúa sống động.

Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tự hỏi: "Làm thế nào để cho Chúa Giêsu hiện diện trong các linh hồn?" Và Ngài trả lời: "Nhờ phương tiện vận chuyển, nhờ việc thông truyền lời nói mà tư tưởng của Chúa, Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người đến được với các linh hồn. Có thể khẳng định rằng Chúa nhập thể trong chúng ta khi chúng ta chấp nhận cho Lời của Ngài đến sống trong chúng ta" (Giáo huấn của Ðức Phaolô VI, V 1968, 936).

 

Thông truyền Lời Chúa

Tuy nhiên, tiếp nhận và sống Lời Chúa thôi chưa đủ. Lời Chúa phải được chia sẻ nữa. Chúng ta chia sẻ Lời Chúa trong giáo lý, trong các bài giảng, trong việc giảng tĩnh tâm. Ðiều mà có lẽ chúng ta không luôn thi hành, là trao ban hoa trái của Lời Chúa.

Lời Chúa là hạt giống được gieo vào lòng cuộc đời chúng ta. Thửa đất tốt không trả lại hạt giống, mà trả lại hoa trái. Như thế chúng ta không chỉ thông truyền suy tư của chúng ta về Lời Chúa, nhưng trên hết phải thông truyền kết quả mà Lời Chúa đã thu gặt được trong đời sống của chúng ta. Các chứng nhân đáng tin hơn các bậc thầy, và các bậc thầy lại làm chứng nhân càng đáng tin cậy hơn, chẳng phải vậy sao?

Ðiều này hé mở cho chúng ta thấy đâu là cung cách đứng đắn để loan báo Chúa Kitô. Ðây là việc thông truyền một cuộc sống (Sự Sống), và như thế là làm chứng cho một kinh nghiệm, như cộng đoàn của Thánh Gioan đã hiểu rõ: "Ðiều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến... chúng tôi loan báo cho cả anh chị em nữa, để anh chị em cũng được hiệp thông với chúng tôi" (1Ga 1,1-3).

Chỉ như thế Nước Thiên Chúa mới tiến tới và sự hiệp thông mới lan rộng cho tới khi quy tụ toàn nhân loại trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Trong nhà tù Phú Khánh, các tín hữu Công giáo đã chia nhau mỗi người vài tờ của cuốn Phúc Âm nhỏ mà họ đã đem lén vào trong tù. Họ phân phát và học thuộc lòng. Vì nền nhà tù bằng đất hay bằng cát nên khi nghe bước chân của lính canh tù, họ dấu Lời Chúa dưới cát.

Chiều đến, trong bóng đêm, mỗi người theo lượt đọc phần mình đã học. Thật là cảm động khi nghe Lời Chúa trong đêm tối thinh lặng và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, "Tin Mừng sống động" được đọc lên với tất cả sức mạnh của tâm hồn, hay khi nghe lời cầu nguyện của linh mục, nghe cuộc khổ nạn của Chúa Kitô.

Anh em khác tôn giáo cũng lắng nghe với lòng tôn trọng và khâm phục điều mà họ gọi là "Lời Thánh". Nhiều người nói rằng họ kinh nghiệm được Lời Chúa là "Thần khí và sự sống".

 

Chỉ mang Phúc Âm theo mình

Tôi đã luôn cầu khấn Thánh Giuse giúp đỡ tôi thực thi Tin Mừng. Tuy Ngài là cha nuôi Chúa Giêsu, và suốt đời không lãnh nhận Bí Tích nào - vì khi đó chưa lập Bí Tích - nhưng Ngài đã sống Lời Chúa: lắng nghe, tiếp nhận, thực hành, thông truyền chia sẻ. Vì thế nên xưởng mộc nhỏ đã biến thành một trường học của Tin Mừng. Tôi coi Thánh Giuse như là Bổn mạng của tất cả những ai sống Lời Chúa.

Tôi muốn kết luận bài suy niệm hôm nay bằng cách hướng cái nhìn tới chúng ta là những người cộng tác với Ðức Thánh Cha trong việc hoàn thành thừa tác vụ của Thánh Phêrô. Tôi thường tự hỏi: làm sao trong Năm Thánh này tôi có thể hoàn thành một cuộc thay đổi tâm thức, một cuộc tái truyền giảng Tin Mừng trong cuộc sống, một cuộc hoán cải đích thực?

Sự kiện Ðức Thánh Cha đã bước qua Cửa Thánh với sách Phúc Âm, đã là một bài học lớn cho tôi: đó là đường, đó là hình ảnh của Giáo Triều Rôma cho Ngàn Năm Thứ Ba: một Giáo hội tiếp nhận, sống chia sẻ và loan báo Tin Mừng của Hy Vọng.

 

Tuần Tĩnh Tâm đầu Mùa Chay Năm Thánh 2000

Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page