Linh Ðạo Cho Giáo Dân Ngày Nay

Rev. Jess S. Brena, SJ, Taiwan

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


40. Từ Tu Viện
Trở Về Lại Trần Gian

Rosaline Costa (Nam Á Châu)

Một nhân viên xã hội

Bây giờ cứ mỗi lần nhớ lại những khoảnh khắc bi thảm khổ đau trong quãng đời vừa qua của mình, lòng tôi như tan nát. Do đó hôm nay xin ghi lại những dòng này để giúp những ai đang gặp cùng cảnh ngộ như tôi. Ước mong qua những chia sẻ này họ sẽ cảm nhận được một thứ sức mạnh siêu nhiên nào đó mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban để giúp họ tai qua nạn khỏi. Thực vậy, Thiên Chúa muốn hun đúc, đổi mới lại các tâm hồn này. Và giả như câu chuyện đời tôi sau đây có thể gợi hứng và giúp họ lấy lại được sự nhiệt tình và sức mạnh tâm hồn thì mãi ngàn đời tôi xin cảm tạ Thiên Chúa vì sự săn sóc đầy yêu thương bao la của Người.

"Ơn gọi thật thì chẳng bao giờ bị mất cả". Thật vậy, tôi đã nghiệm thấy mọi biến cố xảy ra cho tôi trong thời gian tôi ở tu viện đúng là một sự chuẩn bị cho nghề nhân viên xã hội hiện nay của tôi. Dù đó là một kinh nghiệm thương đau đi nữa nhưng Thiên Chúa có kế hoạch của Người và Người vẫn đang tiếp tục mạc khải điều đó ra.

Lúc đó tôi không thể hiểu, tâm trí tôi tối mịt, nhưng có điều là tôi vẫn không hề mất sự bình an tâm hồn. Thực vậy, tôi được tiếp cho sức mạnh, nghị lực mới để trao đổi. Gặp gỡ mọi người trong xã hội. Trước đây khi còn là một nữ tu, tôi có thực hiện một công tác gì đó để đem lại sự công bằng, còn bây giờ tôi có cả một môi trường rộng lớn là tổ quốc tôi, là các quốc gia vùng Á Châu.

"Lạy Chúa, xin biến con thành khí cụ trong tay Ngài. Ngài đã sáng tạo con. Xin hãy sử dụng con".

Tôi còn nhớ rõ một ngày nọ cha X. nói với tôi: "Chúa đã chuẩn bị cho chị làm việc mới này khi còn sống ở tu viện". Hiện tôi đang công tác tại văn phòng Công Lý Hòa Bình. Cách đây hai năm tôi chưa hề nghĩ có ngày mình làm việc ở đây. Ðó là một câu chuyện dài, một câu chuyện buồn.

Hồi đó vào những năm đầu thập niên 60, dù không được sự thuận tình của cha tôi, tôi vẫn vào trường tu viện với khát vọng mạnh mẽ là học tập để trở thành một nữ tu. Chúa thương cho tôi học tập tốt; đến năm 1968 tôi tốt nghiệp loại ưu.

Năm 1969 đầy hân hoan phấn khởi, tôi bước vào giai đoạn thỉnh sinh. Tôi cầu xin Chúa giúp tôi kiên trì trung thành sống ơn gọi này đến suốt đời. Và rồi những năm tháng nhà tập cũng trôi qua với bao niềm vui buồn. Ðến năm 1972 tôi được khấn tạm.

Ðịa điểm phục vụ đầu tiên của tôi là tại một nhà nuôi dạy trẻ mồ côi, trung tâm phục vụ các phụ nữ nghèo, trường trung học. Tại những nơi đó dù chỉ một vài năm tôi cũng tích lũy được một số kinh nghiệm.

Sau đó các bề trên cho tôi đi học. Tốt nghiệp, tôi được chỉ định làm hiệu trưởng một trong số các trường trung học của chúng tôi. Một thời gian sau, tôi lại bị đẩy vào một môi trường hết sức hỗn loạn đầy những tranh chấp cá nhân và những hiểu lầm sâu xa. Thật là một kinh nghiệm đau thương đến tốt cùng. Trong những tháng ngày tăm tối đó, khi chẳng biết đi về đâu giữa cái bể đời rối răm khôn cùng. Khi chẳng còn ngôi sao mai nào lóe cho tôi một niềm hy vọng..., tôi vẫn không hề bỏ cầu nguyện, suy gẫm, lần hạt và đọc "Kinh hãy nhớ", kinh tôi đặc biệt ưa thích. Tôi cũng suy gẫm sự thương khó của Chúa Kitô, nhất là sự phản bội của môn đệ Người. Rồi tôi lại bị yêu cầu ra khỏi dòng.

Ngày tôi rời khỏi dòng, tôi bỏ ước nguyện mà tôi đã bỏ mọi sự để theo đuổi, tôi xin Chúa cho tôi có sức chịu đựng tất cả. Dù được người anh linh mục và các bạn bè thiện cảm khác nâng đỡ bằng lời cầu nguyện, bằng sự động viên, lòng tôi vẫn cứ tan nát. Nhờ người anh linh mục can thiệp giúp, một Hội Dòng khác đã tạm thời đón nhận tôi vào Cộng đoàn của họ. Ở đó có một chị đã giúp đỡ tôi cách đặc biệt, đã an ủi tôi rất nhiều. Chị ấy giúp tôi sống cô tịnh và được nhiều thời gian thư giãn nghỉ ngơi. Chị ấy chẳng bao giờ hỏi tôi về bất kỳ chuyện gì trong quá khứ. Chị ấy thực đúng là một người mẹ, người chị, người bạn của tôi. Chúa đã gửi chị ấy đến cho tôi. Sau 2 năm được chị ấy săn sóc và hướng dẫn, cuối cùng tôi đã tìm lại được hướng đi riêng của mình là hoạt động giữa đời.

Sau một năm tám tháng giữa đời, Thiên Chúa đã tỏ cho tôi biết con đường Người muốn tôi đi, con đường mà Người đã chuẩn bị từ lâu. Ðó là phục vụ những người nghèo, những người túng đói thật sự. Bất ngờ vào mùa hè năm 1987, cha X. đề nghị tôi làm việc với Ủy Ban Công Lý Hòa Bình.

Thời gian này may mắn thay có người anh linh mục vẫn tiếp tục nâng đỡ tôi. Trong thời gian ra khỏi tu viện tôi có thuận lợi là có được sự nâng đỡ tinh thần lẫn vật chất. Tôi nhận ra là có nhiều người tốt đã giúp tôi hết tình. Song tôi cũng hiểu có nhiều chị em tu xuất đã ngã lòng và không được mấy ai nâng đỡ. Chúng ta cần phải ý thức là các chị em đó rất cần sự giúp đỡ.

Tôi thường tự nhủ "Thôi ta đừng nghĩ đến, đừng bám vào quá khứ nữa. Hãy nhìn tới tương lai". Các bạn hãy xây dựng cuộc sống hiện tại của các bạn bằng những kinh nghiệm các bạn đã có sẵn. Hãy tin vào Thiên Chúa. Người luôn ở với các bạn. Tôi học được điều này không phải từ sách vở mà từ những kinh nghiệm cuộc đời. Chẳng ai bắt tôi phải đi tu cả mà hoàn toàn là do ý muốn tự do của bản thân tôi. Còn lúc tôi phải rời dòng với cái kinh nghiệm đứt ruột đứt gan này, đức tin vẫn không hề bỏ tôi. Sau 17 năm, thật khó hiểu nổi chính bản thân tôi lúc này lại nằm giữa đời. Một số chị em đã viết thư thăm tôi, thậm chí có chị còn nói: "Tôi mong làm được công việc như chị đã làm khi chị còn ở với chúng tôi. Dẫu cho Hội Dòng của chúng tôi không chấp nhận, chúng tôi vẫn muốn. Chị vẫn mãi mãi là chị em của chúng tôi".

Mỗi sáng tôi thường thức dậy rất sớm. Tôi đọc kinh sáng trước bàn thờ nhỏ có thắp một ngọn nến. Sau đó tôi đi dự lễ, trung tâm điểm của đời sống tôi. Rước lễ xong, tôi phó dâng trọn vẹn bản thân tôi cho Chúa. Tôi thưa với Người:

Kế đó tôi khởi sự làm việc hằng ngày. Cuối ngày, tôi dành tối thiểu 15 phút để suy niệm, trừ phi mệt mỏi quá hoặc phải đi công tác xa, và đọc kinh chiều. Tôi không bao giờ cầu xin Chúa cho tôi được như ý, mà tôi xin nếu đẹp lòng Người, xin ban ơn cho tôi. Khi cầu xin mà không được, đôi lúc tôi cũng thấy khó chịu nhưng chỉ trong chốc lát bởi lẽ tôi biết như thế có lợi hơn cho mình. Thiên Chúa biết rõ điều gì tốt nhất cho tôi. Sau đó khi sự việc xảy ra, tôi mới thấy những điều mình muốn chưa hẳn là ý Chúa và thường những điều Người ban bao giờ cũng hậu hĩ tốt lành hơn điều tôi mong. Bây giờ tôi đã có thể dễ dàng đón nhận ý Chúa hơn. Bằng cách này tôi cảm nhận được là Thiên Chúa vẫn tiếp tục dùng tôi ngày này qua ngày khác cho ý định riêng của Người. Càng lúc tôi càng thêm hiểu biết hơn về nhiều người khác và giúp đỡ họ khi cần thiết. Nhờ công tác tại văn phòng ủy ban Công Lý Hòa Bình và nhờ mạng lưới liên lạc qua hệ thống này tôi trở thành người quốc tế.

Lúc này tôi cũng cảm tạ Người vì tôi có thể trao ban tình yêu của Người cho những người khác nữa. Bản thân tôi đã cảm nghiệm được tình yêu của Người, sự săn sóc mà Người lo cho tôi trong từng khoảnh khắc cuộc sống. Tôi đem chia sẻ niềm vui, ân sủng đó lại cho những người khác. Những chia sẻ này không phải là do sách vở, nhưng là từ những kinh nghiệm cuộc sống đem lại.

Bây giờ tôi không còn cảm thấy cô độc nữa, bởi lẽ cả ngày tôi luôn luôn bận bịu với công việc. Ban đêm tôi học luật để tôi có thể bênh vực người nghèo. Tôi đã khám phá được ơn gọi thật của mình. Tôi mong được tiếp tục học luật tại Hoa Kỳ. Nếu không được cha K. hỗ trợ, hẳn tôi đã không thực hiện được điều đó.

Tôi tìm thấy được niềm vui lớn trong công tác phục vụ người nghèo của tôi, một niềm vui khôn tả! Chúa ở với tôi! Người là nguồn sức mạnh của tôi. Không có Người hẳn tôi không thể làm được những gì tôi đang làm. Không phải là tôi, song chính là Ðấng đang hoạt động trong tôi. Ðây không phải là lời thánh Phaolô, nhưng chính là kinh nghiệm sống của tôi. Ðây không phải là lời trích từ trong Kinh Thánh ra, nhưng là kinh nghiệm sống Lời Chúa mà tôi vẫn trải qua hằng ngày.

Sống với những người nguời nghèo, tôi dần dần nhận thấy được là có nhiều người còn bị áp bức, lăng mạ, bỏ quên và không được giúp đỡ nhiều hơn tôi. Chính điều này làm dịu đi những nỗi đau của tôi rất nhiều. Ðến nay tôi vẫn còn hết sức ngạc nhiên với điều này: dù công việc tôi đang làm thật nặng nề, tôi vẫn cảm thấy có một sức mạnh ở trong tôi và không bao giờ cảm thấy kiệt sức. Nhiều lần tôi vẫn tự hỏi mình: "Sức mạnh ấy từ đâu?" Ðây vẫn là một mầu nhiệm đối với tôi. Tôi tạ ơn Chúa vì Người đã phá vỡ cuộc đời như đập bể một cái bình rồi gắn đúc lại. Ngài sẽ hướng dẫn và bảo vệ tôi. Người thợ gốm còn bỏ bình do họ làm ra, nhưng Chúa sẽ không bao giờ bỏ tôi. Nếu những chia sẻ trên có thể giúp ích, gợi hứng cho ai, xin hãy cảm tạ Thiên Chúa chứ đừng cám ơn tôi, bởi tôi cũng chỉ là một tạo vật của Người.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page