Linh Ðạo Cho Giáo Dân Ngày Nay

Rev. Jess S. Brena, SJ, Taiwan

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


41. Ðời không đẹp như hoa

Vô Danh (Malaysia)

Tôi muốn chia sẻ những điều này cho những bạn đang tự tử vì gặp quá nhiều thất bại trong cuộc sống. Tôi thành thật mong rằng Thánh Thần sẽ linh ứng, sẽ đánh động tâm hồn họ, giúp họ tiếp tục kiên nhẫn trong những giai đoạn cam go như vậy. Có những lúc tôi cứ muốn giá như Chúa không có, để Ngài khỏi nhìn thấy việc tôi có thể tự kết liễu cuộc đời mình mà không sợ Người biết. Vì nếu biết có Thiên Chúa thật sự, tự tử là có lỗi, có tội. Chính Chúa Giêsu đã hứa những ai kiên nhẫn trung thành tuân theo thánh ý Người đến cùng sẽ được hưởng trời mới đất mới (A 2 Pr 3,13; Kh 21,1-4).

Rõ ràng cuộc đời đối với tôi không phải là hương là hoa. Ngay từ khi mới mở mắt chào đời tôi đã phải cơ cực rồi. Cha tôi qua đời trong thời gian đất nước tôi bị Nhật chiếm đóng. Lúc đó tôi mới hai tuổi. Mẹ và hai chị tôi phải lao đao vất vả để gánh vác gia đình. Thời đó con gái lại bị coi khinh không trọng bằng con trai, nên ngay cả những người bà con cũng cổ vũ mẹ tôi cho quách hai đứa con gái đi để bà được nhẹ gánh hơn.

Người mẹ góa của tôi, đúng là một người phụ nữ nhân hậu, chẳng những không để tâm gì đến lời đó mà lại càng trân trọng yêu quí hết cả ba chị em chúng tôi. Vì sự sống còn của gia đình, bà tần tảo vất vả trong những nghề như lao động, phục dịch các người Nhật, người Âu Châu để có điều kiện giáo dục chúng tôi nên người. Ngày nay 3 chị em chúng tôi đều là nhân viên nhà nước cả.

Năm 1955, gia đình tôi vẫn sống xa cách Giáo Hội. Tôi còn tuân giữ các nghi lễ phụng tự ngày Chúa Nhật chẳng qua chỉ vì sợ phạm tội trọng chứ không phải vì yêu Chúa Giêsu. Tôi cũng không cảm thấy hứng thú gì khi dự lễ và cứ phải miễn cưỡng vác xác đến nhà thờ. Tôi nhớ hồi đó mẹ tôi thường bảo tôi phải đi lễ và đi chầu mỗi ngày. Tôi cứ bị rầy la mãi vì không làm như mẹ tôi dạy. Phần tôi, bất chấp mọi lời mè nheo gắt gỏng của bà, tôi vẫn không đi. Ðời sống đạo của tôi hồi niên thiếu còn dưới cả số không (quá bết bát).

Khi làm công nhân viên chính phủ, tôi cũng chẳng thoải mái hơn. Thỉnh thoảng tôi lại bị bắt nạt, bị ngược đãi, bị thuyên chuyển hết bộ phận này qua bộ phận khác, khiến cho cuộc sống lao động của tôi càng thêm khốn khổ đến độ tôi không còn hứng thú mà làm nữa. Do sự đối xử thiên vị của một số viên chức, vài đồng nghiệp trong căn nhà chúng tôi được sống phè phỡn thoải mái trên mồ hôi nước mắt của tôi, một nạn nhân của sự phân biệt đối xử. Và cũng vì lý do phân biệt đối xử đó, một ngày nọ người ta chuyển tôi tới công tác ở một nơi rất xa nhà.

Trong suốt thời gian đó, tôi luôn cầu xin Chúa gửi cho tôi một anh chàng khá giả hoặc một sĩ quan cao cấp nào đó để lấy làm chồng, bởi lẽ họ mới có thể lo cho tôi được cuộc sống yên ổn. Vì lý do đó những chàng không có địa vị, của cải như các nhân viên, trung úy, giáo viên... tôi đều cho ra rìa bởi đồng lương của họ kiếm được chẳng là bao. Cho đến bây giờ vẫn chưa có phò mã nào xuất hiện. Những người bạn trai mà tôi nhắm cuối cùng đều đã lập gia đình cả rồi hoặc đều đã có những người bạn gái khác.

Thậm chí có lần nọ tôi định vào dòng Cát Minh để trốn cái công việc khốn khổ, cái thế giới độc ác đó. Lúc tôi tới nhà dòng, trong tôi vẫn lẩn quẩn ý nghĩ là mình không được gọi nhưng chẳng qua vì mình muốn né tránh những thực tế trên. Sau cùng tôi cũng bỏ ý định đó. Tôi không còn hứng thú gì để cầu nguyện cả và cũng chả còn tin tưởng vào Thiên Chúa. Ðến lúc này tôi vẫn chưa nếm được hương vị thành công trong đời.

Như vậy rõ ràng đời sống đạo của tôi được khởi sắc trở lại nhờ những thất bại trong đời tôi và tôi như bị thúc đẩy phải đối diện trước vấn nạn này:

"Tôi bị lỗ lã gì nếu giả như tôi hiến trọn tâm trí linh hồn vào việc chiếm hữu Nước Trời, bởi lẽ thực tế tôi có đạt được những gì tôi muốn nơi trần gian này đâu. Các bạn hãy dành cho Chúa Giêsu Ðấng Cứu Chuộc chúng ta phần lời thu được từ việc nghi ngờ Người không nói thật".

Chính Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố:

"Ta là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6).

Năm 1970, cả gia đình tôi phải dọn tới một nơi cách nhà thờ hơn 4 cây số. Chúng tôi không có xe riêng và việc đi nhà thờ phải tùy thuộc vào các phương tiện công cộng. Mẹ tôi thường bảo là bà mong được sống gần nhà thờ. Tôi trở nên rất quan tâm đến việc nhà thờ chẳng hạn như việc dạy giáo lý. Tôi tốt nghiệp khoa Kinh Nghiệm Canh Tân Giáo Xứ (Parish Renewal Experience), rồi lớp chuyên đề Ðời Sống Trong Thánh Thần (the Life in Spirit Seminar)... Thậm chí tôi còn hăng hái tới mức dù xa xôi tôi cũng cố đi dự thêm một lễ thường trong tuần nữa. Tôi trung thành dự lễ Misa ngày Chúa Nhật. Và bây giờ tôi đã thấy hứng thú khi dự lễ bởi tôi cảm nhận được Chúa Giêsu đang hiện diện rất sống động trong phụng vụ. Tôi đọc kinh sáng, kinh chiều, kinh tối thường xuyên không bỏ; đôi khi đọc một cách tự phát, thuộc lòng nữa. Tôi đâm ra thích cầu nguyện, trò chuyện với Chúa.

Ngoài các hoạt động ở nhà thờ, tôi còn đi thăm các anh chị em nguội lạnh đức tin và các cặp vợ chồng không làm phép cưới ở nhà thờ. Tôi cũng thu xếp để giúp 3 gia đình có con cái lớn, làm cho họ hiểu họ vẫn là chi thể của Giáo Hội, và nhờ những ân huệ đặc biệt của Giáo Hội, nhờ xưng tội kỹ lưỡng, họ có thể rước lễ trở lại. Hiện nay họ là những anh chị em Công Giáo sống đạo tốt. "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết" (Ga 2,26). Bởi đó, tôi biến đức tin của tôi thành hành động. Lòng tôi ngập tràn niềm vui khi thấy các anh chị em đó đi dự lễ Chúa Nhật, rước lễ, tham gia các lớp như Kinh Nghiệm Canh Tân Giáo Xứ, Ðời sống trong Thánh Thần, học hỏi Kinh Thánh... Qua 40 năm khốn khổ bất hạnh ấy, tôi đã tìm được cách làm tăng trưởng đời sống thiêng liêng và đức tin của tôi đến độ không ngờ. Ngay cả mẹ tôi cũng ngạc nhiên vì sự nhiệt tình đạo đức của tôi. Tôi tin và tôi cảm nghiệm rất rõ là những tháng ngày bất hạnh tôi đã trải qua không phải là ý của tôi nhưng là ý của Thiên Chúa nhân từ. Tôi cảm nhận là Thiên Chúa không muốn tôi đạt được những thành công tạm thời ở trần gian, mà Người muốn tôi phải hướng về trời cao, quê hương vĩnh hằng của tôi.

Do đó Người đặt nhiều trở ngại để không cho tôi thành công được nơi cuộc sống trần gian này cho tới lúc nào tôi thật sự đầu hàng, chịu thua Người. Người biết rõ là nếu như tôi có được một cuộc sống thành công, như ý, với một gia đình hạnh phúc và của cải vật chất sung túc, hẳn tôi sẽ quan tâm đến những thứ của trần gian hơn và không thể tập trung tâm tư linh hồn vào Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế rất kính yêu của tôi.

Nước mắt ràn rụa, khi hiểu được tại sao Thiên Chúa không đáp ứng những lời cầu xin của tôi như ban cho tôi một người bạn đường vừa ý. Tóm lại, thất bại trong cuộc đời giúp tôi khám phá ra Thiên Chúa, bởi vì dù chậm mà chắc Người đã hướng dẫn tôi theo con đường của Người chứ không phải là con đường của tôi.

Sau 45 năm và 25 năm công tác, một viên chức nhà nước có thể về hưu và được hưởng lương hưu bằng nửa tháng lương chính. Tôi quyết định về hưu. Ngồi gẫm lại quá khứ, tôi tự hỏi làm sao tôi đã có thể chịu đựng nổi 25 năm bị bắt nạt, bị phân biệt đối xử như vậy. Tôi tin là Thiên Chúa đã ban cho tôi ơn kiên nhẫn chịu đựng ấy. Tôi cảm tạ, ngợi khen Người vì Người đã thương tôi.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page