"Má ơi, con không
sợ.
Chúa ở trong con, Chúa Thánh Thần
ở trong con.
Con có thể cảm thấy sự hiện
diện của Ngài".
Với những suy nghĩ rất đẹp này, vào tháng 11/1987 Mark đã đương đầu với cái chết sớm khi chỉ còn 8 ngày nữa là đến ngày sinh nhật của cậu. Chúng ta hãy nghe mẹ cậu kể lại đức tin đáng kinh ngạc của cậu đã thực hiện được biết bao điều kỳ diệu. Ngày 20 tháng 1 năm 1988, mẹ cậu viết thư cho cha Brena như sau:
Xin cha tiếp tục cầu nguyện cho chúng con để con luôn tin vào tình yêu Thiên Chúa ngay cả khi chúng con không hiểu được tại sao một đứa trẻ như Mark lại phải chết sớm như vậy, dù nó rất tin vào Thiên Chúa.
Mark sinh ngày 27 tháng 11 năm 1980. Nó là món quà Thiên Chúa gởi tặng anh David và con, cùng anh nó là Noel. Buổi thiếu thời Mark may mắn, khỏe mạnh, không hề bị bệnh nặng. Nó sống nhiệt tình và hài lòng về những năm tháng đầu đời nó. Nó đã cho và đã nhận tình yêu. Ðối với Mark, thật dễ dàng như hít thở, để nói mấy lời này: "Má ơi, con thương má", "Ba ơi, con thương ba", "Anh Noel, em thương anh". Nó chỉ bối rối ngượng nghịu khi chúng con hôn nó nơi công cộng.
Trước khi nó mất khoảng một năm, tức là khoảng cuối năm 1986, lúc ây Mark đang học năm thứ 2 nhà trẻ. Nó băt đầu đưa ra nhận xét là nó không muốn chết trẻ. Nó nói điều đó với ba nó là anh David và con lúc này lúc nọ. Vào tháng 1/1987 lần cuối cùng nó lại đưa ra nhận xét này khi cả nhà đang quây quần bên nhau. Nó nhắc lại: "Má ơi, con không muốn chết trẻ". Anh David trông có vẻ bối rối và anh đặt vấn đề ấy với con. Con nhẹ nhàng gạt đi và trấn an Mark là thường những người già hơn sẽ bị bệnh và chết trước. Câu nói của con dường như làm cho Mark đã được mạc khải trước một điều sẽ xảy ra cho nó 11 tháng sau? Bởi lẽ tuần cuối tháng 1 năm 1987, nó đã bị nhiễm sốt.
Ngày 2 tháng 2, chúng con đưa Mark vào bệnh viện đa khoa Singapore cho bác sĩ khám. Bác sĩ bảo với anh David và con là Mark có bệnh và cuộc khám nghiệm để định bệnh cho Mark đã được xúc tiến. Người ta cũng thực hiện việc soi quang tuyến vùng bụng vì nghi có thể bị chứng u hạch bạch huyết. Lúc ấy Mark đã hiểu được là nó bệnh nặng. Nó hỏi con: "Má ơi, con sắp chết rồi hả má?" Con không biết trả lời sao nên con hỏi lại nó: "Con có sợ không? Con nghĩ gì vậy con trai cưng?" Nó trả lời: "Không má ơi, con không chết, Chúa đang ở trong con".
Luc 12 giờ trưa ngày 4 tháng 2, Mark được đẩy trên xe lăn vào phòng mổ. Con tới nhà thờ thánh Têrêsa, nằm gần bệnh viện nhất, và lần đầu tiên trong đời con, con khóc thảm thiết xin Chúa tha mạng cho con trai con. Anh David và con đầy tuyệt vọng, lo âu. Con hỏi bác sĩ trực về tình trạng của Mark. Ông nói với chúng con là nếu không chữa trị thì Mark chỉ sống 2 hoặc 3 tuần nữa, còn nếu chữa, thì có thể là 6 tháng hoặc gần một năm. Chúng con hy vọng mà tuyệt vọng. Mặc dù chỉ mới 6 tuổi, một thánh giá nặng nề đã đè nặng trên vai Mark. Cha C. Barreteau đứng cạnh anh David và con khi Mark được đẩy vào phòng săn sóc đặc biệt. Lúc đó, cha quyết định cho Mark được lãnh nhận tất cả các bí tích.
Ngày 8 tháng 2: Mark được rước lễ lần đầu.
Ngày 20 tháng 2: Mark được thêm sức và được lãnh nhận bí tích xức dầu bệnh nhân. Kể từ lúc ấy trở đi, Mark càng lớn lên trong đàng thiêng liêng, nó có thể cầu nguyện sốt sắng, đức tin đức cậy của nó vào Thiên Chúa càng lúc càng mạnh mẽ. Con dạy cho Mark đọc lời nguyện tắt "Lạy Chúa Giêsu, xin dâng Ngài mọi sự" (All for Thee, O Jesus) mỗi khi đau; và nó đã trung thành đọc lời nguyện này cho tới lúc cơn đau giảm đi. Ðôi khi nó đọc nhanh đến nỗi nghe như là: "Giá được trà và phó-mát" (O for tea and cheese). Mark thích thú khi con kể cho Mark nghe điều này: Mark được cha Boutaz, hay đi thăm các bệnh nhân tại bệnh viện, cho rước lễ hằng ngày. Anh David và con để ý thấy một sự hồi phục lạ thường về mặt thể lý mỗi lần Mark rước lễ. Ðức tin của nó tăng rất nhanh. Chúng con thấy rất rõ điều này. Thậm chí lúc nó dịu cơn đau, nó có thể hiểu đầy đủ và đọc theo những kinh hay đọc trước khi rước lễ. Nó không bao giờ bỏ lời đáp "Amen" ngay cả hôm trước ngày nó chết.
Ngày 25 tháng 2: sau 23 ngày trong bệnh viện, cuối cùng Mark lại trở về nhà. Chúng con vô cùng cảm tạ Chúa. Mark vẫn được chữa bằng liệu pháp hóa học như đã định. Nó không bao giờ bỏ dự lễ và rước lễ vào ngày trước mỗi kỳ điều trị đã định. Nó cần cái sức mạnh mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban cho và Mark tiếp nhận cái sức mạnh ấy với một đức tin sâu xa. Anh David và con thay nhau dự lễ hằng ngày với Mark. Nó thường chạy trong khu đất quanh nhà thờ, cảm thấy tự do hạnh phúc trong nhà Chúa. Nó trở thành khuôn mặt thân quen với mọi người trong cộng đoàn giáo xứ và họ nhận ra nó nhờ cái mũ mà nó thích đội.
Mark cho thấy là có đức tin, đức cậy sâu xa. Nó luôn xin Chúa Cha toàn năng chữa lành bệnh mỗi lần rước lễ. Ðối với người được chữa bệnh bằng liệu pháp hóa học như nó, xem ra nó khỏe và có vẻ sung sức. Nó chịu đựng cách lạ lùng đến độ nhiều người không tin là nó đang bị bệnh nặng. Nó linh hoạt và rất vui tươi trong tâm hồn. Nó đơn sơ tin là mọi lời chúc phúc lành và mọi lời cầu nguyện trong lễ đều được đọc cho nó. Sau 10 tháng bệnh tật, Mark trưởng thành về tư duy và lý luận vượt xa 6 năm của nó trước đây. Nó cầu nguyện sốt sắng và đầy tinh thần đức tin đến độ ít người lớn có thể hiểu được. Trong nhà chúng con, lần đầu tiên sau những năm tháng lấy nhau, anh David, con và 2 con trai của chúng con là Noel và Mark, hằng ngày quì đọc kinh Mân Côi và đọc thêm những đoạn Kinh Thánh kèm theo cách dễ dàng thoải mái. Sau đó có thêm một số kinh khác nữa mà chính Mark chọn để đọc từ trong cuốn "Những lời kinh và những suy niệm mà tôi ưa thích". Không hề được ai gợi ý hay thúc đẩy, nó chọn kinh đọc trước Thánh Giá. Kinh ấy kết thúc như sau: "Chúng đã đâm thủng chân tay tôi ra và đã đếm các xương tôi". Khi Mark đọc những lời nguyện cuối cùng này, con luôn có cảm giác lạ này là Mark đang khẩn nài Chúa Giêsu giúp nó chịu đựng nỗi đau đớn riêng của nó.
Tay chân của Mark cũng bị đâm vì những vết kim tiêm vào tĩnh mạch để đưa các hóa chất vào và để lấy máu thử. Gân mạch nó trở nên gồ gề vặn vẹo, đau đớn và nhợt nhạt hết màu. Xương chân của nó cũng bị buộc để tiêm thuốc vào. Vào giai đoạn cuối của cơn bệnh, thận nó bị tắc, người ta phải đưa các ống dẫn vào. Trải qua mọi đau đớn, nó vẫn luôn tin Thiên Chúa ỏ với nó. Thậm chí trong nghịch cảnh Mark vẫn ca ngợi Cha trên trời.
Mark làm mọi người chúng con đều ngạc nhiên. Sức mạnh nào trong nó mà chúng con không thể thấy được. Suốt thời gian bệnh tật, nó thường hát các lời xướng đáp của linh mục trong thánh lễ, đặc biệt trước khi đi ngủ. "Alleluia, Alleluia", "Chính nhờ Người, với Người và ở trong Người". Nó nói với chúng con rằng lớn lên nó sẽ làm linh mục. Nó đã có khát vọng cao nhất của một đứa trẻ lên sáu.
Một bữa nọ trong tháng 9 năm 1987 khi cha Jess Brena đến thăm chúng con, thì Mark đang "cử hành Thánh Lễ" trên một cái bàn thấp. Chúng con kể cho cha những chuyện đang xảy ra. Cha bảo rằng khi cha còn bé cha cũng muốn trở thành linh mục, nhưng mẹ cha còn muốn điều đó hơn cả cha nữa. Mark rất đơn sơ trong nhận thức của một đứa trẻ, đã ngạc nhiên đáp lại: "Mẹ cha muốn trở thành linh mục ư? Không thể được, Mẹ cha phải là đàn ông".
Lần nọ, khi Noel đang làm bài ở nhà và Mark đang chơi, Noel nói với con nhận xét này: "Sao Thiên Chúa không thể chỉ cho Mark bị ho, bị cảm? mà lại để cho nó phải là cái căn bệnh kinh khủng như vậy?" Con do dự chưa biết trả lời sao thì Mark đứng dậy và bảo: "Chúa đâu có tạo ra các bệnh tật, đúng vậy phải không má? Chúa chỉ chữa lành thôi". Anh David và con cứ thường hỏi nhau: "Làm sao Mark có thể nói được như vậy nhỉ?" trong đáy lòng mình, con đã tra vấn Chúa về lòng thương xót và yêu thương của Người. "Hàng triệu người đang tiêu diệt các thai nhi nơi chính họ. Tại sao một đứa trẻ như Mark lại phải như vậy? Chúa ơi, xin tha mạng cho con của con".
Ngày 9 tháng 10, vì thấy những khối u mới xuất hiện trên bụng, nên người ta lại soi quang tuyến vùng bụng và ngực. Kết quả cho thấy những khối u ở gan, ngực và cả vùng bụng đã phát triển rất lớn. Quả thận bên phải đã bị khối u chận nên không thể hoạt động được. Chúng con bảo với Mark là chứng ung thư đã trở lại. Nó im lặng lắng nghe. Ðôi mắt đẹp của nó không tỏ lộ gì cả.
Chúng con được phép đưa Mark về nhà trong khi chờ quyết định bước chữa trị kế tiếp. Trên đường về nhà, Mark ngồi thinh lặng ở ghế phía sau xe. Lúc ấy, lần đầu tiên kể từ lúc chấn bệnh, nghĩa là lần đầu tiên kể từ tháng 2/1987, nó đã khóc. Nó biết. Chén đắng này nó không chối từ. Con ôm nó trong vòng tay con. Nó có nghĩ là Thiên Chúa đã bỏ nó chăng? Không. Nó hỏi là nó có thể rước lễ trước khi nó trở về nhà được chăng. Tối hôm đó nó rung chuông gọi mấy đứa anh em họ lại và báo tin ấy. Nó bảo: "Xin cầu nguyện cho mình". mặc dù thân xác cứ mỗi lúc một bại hoại sa sút, song nó vẫn tiếp tục dự lễ. Nó đã chịu đựng được nhờ Mình Máu Chúa Kitô. Nó về nhà chạy nhảy lại như thường.
Ngày 22 tháng 10, Mark lại được nhận vào bệnh viện. Không còn chỗ để nước tiểu thoát vì hai quả thận đã bị tắc nghẽn và đang rĩ máu. Nó đau đớn quằn quại. Người ta phải đưa hai ống nhỏ vào thận phải và thận trái vòng qua chỗ tắc nghẽn, máu và nước tiểu mới có chỗ lưu thông. Khi ấy, nó bảo con: "Con không muốn chết, má ơi". Lòng con vô cùng đau đớn. Con an ủi nó. Con nói với nó: "Con ơi, chính con đã nói Chúa ở với con, vì thế con không sợ mà!" Con còn hỏi nó: "Mark, con có hiểu "Chết" là gì không?" Nó trả lời: "Con không biết nhưng con nghĩ đó là một cái gì đáng sợ và cô đơn, nhưng nếu con có Chúa Giêsu, có má, có ba, có anh Noel..." Nó không nói hết câu. Nó đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ.
Con chưa bao giờ tưởng tượng được Thiên Ðàng là thế nào nhưng con đã kể cho Mark nghe về Thiên Ðàng. Con nói với nó Thiên Ðàng là một nơi ở đó sẽ không còn đau khổ, đau đớn, hay buồn bã, và riêng với nó, sẽ có cả trò chơi, đồ chơi, đủ thứ mà nó muốn. Và ở đó cũng có Chúa Giêsu. Trên Thiên Ðàng nó sẽ rất hạnh phúc. Con hỏi nó: "Khi con lên Thiên Ðàng con có nhớ gia đình, nhớ tất cả những ai chăm sóc con không?" Mark mỉm cười: "Có chứ". Hằng ngày con hát cho nó nghe bài hát nó ưa thích: "Lạy Giavê, Ngài đang ở bên con". Nó hát theo con. Có những lúc con không cầm được nước mắt. Con chỉ khóc thầm, vậy mà dù có vẻ như đang ngủ, Mark cũng với tay ra đụng con và an ủi con: "Má ơi, má đừng khóc nữa, con không đau đâu". Con không thể nói cho nó biết là nỗi đau đó cũng đang dằn vặt tâm hồn con.
Người ta phải tiêm thuốc giảm đau cho Mark, đôi khi cả móc-fin những lúc nó lên cơn đau. Tình trạng nó mỗi lúc một tồi tệ hơn. Lần kia nó hỏi con: "Má ơi, có thật là trẻ em chết trước 7 tuổi sẽ được vào thẳng Thiên Ðàng chăng?" Con trả lời "Phải". Thế là Mark khoái trá nhìn con và bảo: "Ồ, thế thì hạnh phúc quá".
Cha Barreteau vẫn tiếp tục đến cách ngày để cho nó rước lễ và đọc cho nó nghe các bản văn Kinh Thánh. Ôi, nó chờ đợi những ngày đó biết chừng nào! Nó lắng nghe trong thinh lặng và ngạc nhiên trước những dẫn giải của cha Barreteau. Trong 10 tháng nằm bệnh, nó càng thêm thân thiết đặc biệt với cha Barreteau, ngài nói với nó là nếu nó vẫn còn nằm ở bệnh viện đến ngày 27 tháng 11 (ngày sinh nhật của Mark) thì ngày đó cha sẽ cử hành thánh lễ tại phòng săn sóc đặc biệt của nó. Mark thích thú lộ ra mặt bằng một nụ cười thật tươi. Mark chọn giờ lễ là 4 giờ chiều. Chỉ mới 6 tuổi, Mark đã ý thức được sự cao cả và thiêng liêng của Thánh Lễ và thích nó hơn mọi thứ đồ chơi. Tuy nhiên nó chẳng còn sống để mà dự thánh lễ đó. Nó để lại thánh lễ đó như một món quà sinh nhật cho chúng con, tất cả những người đã săn sóc nó, bởi vì cha Barreteau đã giữ đúng lời hứa, cha đã cử hành thánh lễ "sinh nhật" này tại nhà Mark, nhà của chúng con, vào ngày 27 tháng 11 đúng vào 4 giờ chiều.
Ðến tháng 11, Mark càng lúc càng yếu dần, tuy vậy sức mạnh tinh thần và tâm linh của nó lại tăng cao hơn. Nó tiếp tục cầu nguyện chung với chúng con và hát những lời ca ngợi Thiên Chúa với hết cả tâm hồn khiến người lớn chẳng mấy ai hiểu.
Ngày 3 tháng 11, Mark nói với con: "Má ơi, hôm nay con cảm thấy sức mạnh Chúa Thánh Thần nơi con làm cho con cảm thấy hạnh phúc và khỏe mạnh". Lúc ấy, chúng con tự hỏi: "Tại sao nó chẳng bao giờ có vẻ như một đứa trẻ đang bệnh nặng cả".
Một đứa bạn 5 tuổi của Mark bảo với nó là Mark nên rời bệnh viện trước ngày 27 tháng 11 ba ngày để chuẩn bị mừng sinh nhật. Nhưng Mark lại bảo với ba nó: "Con sẽ được chữa khỏi hết, sẽ không còn đau nữa và sẽ về nhà khoảng 20 tháng 11, ba ạ!" Khoảng tuần thứ 2 trong tháng 11, bụng nó căng phồng hơn nữa. Nó hoàn toàn không thể đi lại được, người ta phải đặt 2 ống dẫn nước tiểu rỏ từ thận ra ngoài. Con hỏi nó thánh giá nó phải vác càng lúc càng nặng lắm phải không. Nó gật đầu. Con hỏi nó: "Con cưng của má, con có biết ai giúp con vác thập giá ấy không?" Nó đánh vần: "G-I-Ê-SU".
Ngày 15 tháng 11: bác sĩ C.L.Tan nói với chúng con là Mark đang bệnh ở vào giai đoạn cuối và không còn cách nào khác được nữa. Chúng con có thể đưa nó về nhà và bệnh viện sẽ giúp đỡ mọi thứ để chúng con săn sóc nó tại nhà. Noel giúp em mặc quần áo để về nhà. Sau khi Noel giúp xong, Mark nhẹ nhàng kéo anh về phía mình, nó hôn anh và bảo: "Anh phải giúp người bệnh, để khi anh bệnh, sẽ có người khác giúp anh". Lúc ấy con ngồi trên giường, nó hôn con trên môi và trên cả hai má, trong thinh lặng, lần cuối cùng. Chúng con đưa nó về nhà và nó có thể thưởng thức các chương trình truyền hình.
Ðêm đó chúng con quây quần đọc kinh Mân Côi quanh giường nó, và khi ông anh con chuẩn bị về nhà, Mark bảo: "Bác Bear ơi, bác hãy cẩn thận giữ mình đấy nhé. Bác hãy cầu nguyện cho gia đình cháu với. Bác thắp giùm 4 ngọn nến: cho ba, cho má, cho anh Noel và Myra với nhé". Nó không yêu cầu gì cho chính nó cả.
Anh David lập một bàn thờ cạnh giường Mark, trên đó có một cây thánh giá, một tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng và một Bánh Thánh mà cha Barreteau cho phép chúng con giữ cho Mark, cùng với một ngọn đèn dầu sáng. Mark ngủ ở đó dưới sự hiện diện của bí tích Thánh Thể. Cha Barreteau đến thăm nó hằng ngày.
Ngày 17 tháng 11, cha đọc bài Chúa Kitô tạm biệt các môn đệ lấy từ Tin Mừng Gioan. Mark rước lễ. Nó chỉ hiệp thông với những lời nguyện.
Ngày 18 tháng 11, Mark yếu đến độ không thể ngồi dậy nổi, song nó biết rất rõ tất cả những ai đến thăm nó. Mark chỉ nhấp một chút nước và sống thoi thóp nhờ thuốc nhỏ vào tĩnh mạch. Cha Barreteau cho nó rước lễ, đọc bài Tin Mừng "Các mối phúc thật". Khi cha ra về, Mark quay lại gọi David và con, rồi bảo: "Hai mắt con đang mở". Con mĩm cười trả lời: "Ờ thì dĩ nhiên, con đang thức mà". Nó đáp lại bằng giọng lớn và run run: "Ý con muốn nói, con đang ngủ nhưng hai mắt con mở". Nó nói thế có nghĩa gì? Tới khuya Mark hét lên một tiếng lớn đầy hoảng hốt "Má ơi", vung mạnh tay ra nắm lấy cánh tay cha nó để tiễn biệt lần cuối. Lúc 2 giờ sáng, Mark thở rất khó khăn. Nó cựa quậy và từ chối không để chúng con truyền Oxi nữa. Chúng con quì cạnh giường nó, đọc kinh Lạy Cha và Kinh Mân Côi. Chúng con đặt tay chúng con trên nó. Cha Barreteau đến và cùng cầu nguyện cho chúng con. Ngài đọc kinh cầu cho người hấp hối.
Lúc 5 giờ sang, thình lình Mark hét lên một tiếng lớn gọi Noel, anh nó. Thấy em thở hắt ra, Noel lo lắng kêu xin Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu, xin cứu lấy em con, xin giúp em con". Con không chịu được khi nhìn hai đứa ấy trong tình trạng như vậy. Lúc ấy, con cảm thấy hẳn Chúa đã bỏ rơi chúng con. Chúng con đưa Mark trở lại bệnh viện.
Và khi người anh của con bế Mark đặt lên giường, Mark trút hơi thở cuối cùng. Bây giờ mark đã ra đi bình an, với nụ cười trên mặt, khiến mọi người đến thăm đều cảm thấy khó quên.
Có tự phụ lắm chăng nếu người mẹ tin rằng con mình đã bước vào Thiên Ðàng trong vinh quang. Chúa Cha hằng có đời đời của Mark sẽ đón lấy nó trong vòng tay và tuyên bố: "Này là con yêu dấu của Ta". Bởi vì quả thực thiên đàng vẫn dành cho những ai như vậy. Vị chủ tế đã kết thúc bài ca ngợi trong thánh lễ an táng của Mark bằng những lời lẽ đầy xúc động như sau:
"Thoạt đầu chúng ta cảm thấy Thiên Chúa không công bằng, chúng ta cảm thấy thánh ý Người không thể chấp nhận được. Song phải mất 10 tháng để Mark và tất cả chúng ta trưởng thành lên trong đức tin và để đón nhận thánh ý Ngài".
"Cám ơn Mark vì con đã làm những điều đó cho mỗi người chúng ta. Nhờ con, lúc này chúng ta được gần Thiên Chúa hơn, chúng ta sẵn sàng vâng theo ý Người. Con không chết, con đã được sinh lại trong sự sống sung mãn".