"Nhờ tin vào Thiên Chúa, tôi đã dần dần hiểu được ý nghĩa cuộc đời, dù phải nếm qua nhiều thử thách và đau khổ".
Tôi lớn lên trong một gia đình bất hạnh, vì má tôi không bao giờ bỏ qua cho ba tôi về bất cứ hành tung lớn nhỏ nào của ông. Nhà ở của chúng tôi biến thành một bãi chiến trường của ba má tôi và tôi đã không nhận ra được mấy tình yêu từ họ.
Bởi ngày nào hai ông bà cũng lo nhiếc mắng nhau nên các công việc nhà bị bỏ mặc. Vì thế ngay từ khi lên tám tuổi, tôi đã phải oằn vai gánh vác mọi công chuyện trong nhà. Nhận thấy ba tôi có chút tình cảm thiên về tôi là má tôi liền trút lên tôi sự quạu cọ của bà. Không bao giờ tôi được bà khen về sự đảm đang của mình, cũng chẳng bao giờ bà chia sẻ cho tôi một món ăn ngon. Ðiều khắc nghiệt nhất là má tôi không cho phép tôi dùng xà bông để giặt quần áo cho ba tôi. Và vì thế áo quần của ba tôi chóng bẩn và cũ. Ông đã tặng tôi hai bạt tai vì cho rằng tôi đã cẩu thả đối với quần áo của ông. Còn má tôi thì thích thú trước nỗi oan nghiệt của tôi. Ông bà đường đường chính chính là ba má tôi thì tôi phải nghe ông bà chứ? Ấy thế mà hễ tôi nghe lời ba tôi là cầm chắc sẽ bị má tôi đánh đòn. Nỗi tủi cực của mình thật chất ngất, nhưng tôi không biết làm sao giải tỏa vơi được. Vì lớn lên mà không hề được dinh dưỡng thích đáng, tôi mắc phải chứng sưng hạch cổ. Tôi phải chịu ba cuộc giải phẫu, và trong lần mổ cuối cùng tôi suýt mất mạng. Rồi chứng sưng ruột đã dẫn đến hậu quả là màng dạ dày bị thủng. Tôi nằm bệnh viện suốt hai tháng. Thân thể tôi in đầy những vết thẹo không xóa được.
Suốt quãng đời tăm tối nầy tôi không biết Chúa, và tôi thường tự hỏi sao trời bất công đã để tôi sinh vào một gia đình khốn nạn như vậy, bắt tôi phải chịu ngần ấy thử thách và buồn phiền.
Tôi đã thật sự nghĩ rằng cuộc đời là vô nghĩa. Như Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người với mục đích mà chỉ mình Người biết. Tôi chỉ có thể hiểu được mầu nhiệm của Chúa bằng con mắt Ðức Tin.
Tôi đến gặp một linh mục xin học Anh Văn đàm thoại. Nhưng linh mục ấy một mực bảo rằng nên học đôi chút về tôn giáo trước khi nghe các băng tiếng Anh. Dù không hài lòng lắm với kiểu sắp xếp đó, nhưng tôi đã miễn cưỡng chấp nhận. Rồi lần kia vị linh mục hỏi thăm về mảnh băng trên cổ tôi. Tôi nói với ông rằng đây là vết thương chưa lành sau cuộc giải phẫu hạch cổ lần thứ ba của mình. Sau đó ông giới thiệu tôi với một bác sĩ đang làm việc tại một bệnh viện Công Giáo. Nhưng tôi nhắc ông nhớ rằng vị bác sĩ điều trị cho tôi đã khuyến cáo tôi đừng giải phẫu thêm lần nữa. Thế nhưng, linh mục vẫn cố ép tôi đến gặp vị bác sĩ mà ông giới thiệu.
Tại bệnh viện Công Giáo ấy, tôi đã trải qua một tuần lễ xét nghiệm, có một nữ tu săn sóc và khích lệ tôi. Sự săn sóc ấy đã động viên tôi mãnh liệt bởi vì từ bé tôi nào có nhận được tình thương của ba má. Dù tôi chưa tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, Chúa vẫn dùng chị nữ tu này để lay động trái tim chai cứng của tôi.
Khi trở về nhà, bệnh viện cho tôi biết rằng mình phải trở lại để được giải phẫu. Tôi báo cho vị linh mục biết và ông đã đề nghị tôi cầu nguyện. Nhưng tôi nào biết cầu nguyện bao giờ đâu. Ông nói rằng tôi nên cầu nguyện theo cách mà tôi đã quen trong Phật Giáo. Tôi quyết định đi tới nhà thờ, quỳ xuống, khép mắt lại và thành khẩn cầu xin cho cuộc giải phẫu được tốt đẹp. Bất thần, tôi nhìn thấy một chiếc bóng trắng trong tâm trí mình và có tiếng nói: "Con đừng đi giải phẫu vì sẽ không thành công". Tôi xúc động mạnh, nhưng khi mở mắt ra thì chiếc bóng trắng ấy không còn nữa. Sẵn đang lo sợ về cuộc giải phẫu. Giờ đây tôi lại càng hoang mang hơn bao giờ hết vì kinh nghiệm cầu nguyện này.
Ngày hôm sau, tôi trở lại bệnh viện trong một tâm trạng rất dao động. Vừa gặp tôi, vị bác sĩ bảo tôi trở về nhà mà không nói không rằng gì thêm. Tôi bực mình vì đã phải đi ba tiếng đồng hồ mới tới được bệnh viện để rồi được trả về nhà. Tôi đang định "cự" lại bác sĩ thì tiếng nói ấy lại vang lên một lần nữa trong tôi. Thế là tôi đồng ý quay về nhà và quyết định đình chỉ việc nghe băng Anh văn đàm thoại. Thay vào đó, tôi tập trung vào việc học giáo lý và hạt giống mà Chúa đã gieo vào tâm hồn tôi bắt đều nẩy mầm.
Sau khi lập gia đình, tôi không thể thụ thai được vì bị tắc ống dẫn trứng. Tôi hoàn toàn trông cậy vào Chúa xin Người cho tôi một đứa con.
Tôi thành khẩn cầu xin trong ba tháng trời, và nhờ tác dụng của thuốc mà tôi đang dùng để điều trị hạch cổ của mình, ống dẫn trứng lại được khai thông và tôi đã sinh được một cháu gái. Nhưng tôi vẫn ao ước một đứa con trai, thế là tôi lại cầu xin với Chúa nữa. Thiên Chúa đã nhận lời, ban cho tôi một cháu trai. Tôi cảm tạ Chúa bằng cả tâm hồn mình. Tôi tin vào sức mạnh của cầu nguyện. Không lâu sau đó, bác sĩ phát hiện thấy một mầm bướu nhỏ và cứng đang lớn dần trong cổ tôi. Kết quả xét nghiệm cho biết rằng tôi đang bị ung thư hạch cổ. Cho tới những ngày đó thì ung thư có nghĩa là cầm chắc cái chết. May thay, y học đã có một liệu pháp mới giúp kiểm soát được bệnh ung thư của tôi. Ôi, tạ ơn ơn Chúa: Ngài đã không bỏ tôi. Tôi còn bị suyễn và bị thấp khớp nữa, nhưng bằng cách thực hành Yoga, tôi đã chữa được những chứng bệnh này.
Nhờ tin vào Thiên Chúa, tôi đã dần dần hiểu được ý nghĩa cuộc đời, dù phải nếm qua nhiều thử thách và khổ đau.
"Ðể được sống đời đời, bạn phải vác thập giá của mình ở đời nầy và bước theo Chúa Giêsu", những lời ấy đã đánh động tôi mãnh liệt.
Hơn hai mươi năm nay, tôi vẫn đi thăm viếng bệnh nhân trong các bệnh viện để quảng bá Tin Mừng về Tình Yêu Thiên Chúa. Tôi chia sẻ những kinh nghiệm của mình cho họ để khuyến khích họ can đảm đối diện với thực tế và trông cậy vào quyền năng Thiên Chúa.
Tôi cũng vận dụng khả năng riêng của mình để lập một nhóm nhỏ nhằm rao giảng Tin Mừng cho các em ngoài Kitô giáo và kết quả rất khích lệ. Từ khi tôi dốc tâm làm việc cho Chúa, Người đã ban nhiều ân phúc cho gia đình tôi. Chồng và các con tôi hoàn toàn ủng hộ tôi trong công việc mà tôi đang xúc tiến. Mặc dù bị ràng buộc vào việc Chúa, tôi không bê trễ việc gia đình. Tôi muốn dùng những gì mà Chúa đã ban cho mình như sự khôn ngoan, tài hùng biện, sức khỏe tốt trong hiện tại để làm khí cụ cho loài người gieo hạt giống tình yêu vào trái tim con người.
Ở đây cũng nên đề cập đến trường hợp má tôi trở lại đạo. Ba tôi, sau một cuộc sống cô đơn cùng cực, cuối cùng đã mắc bệnh tê liệt, phải vào bệnh viện, nhưng má tôi không cho bất cứ ai trong các con được săn sóc ông. Tuy nhiên vì ba tôi đặc biệt yêu tôi, tôi đã túc trực ngày đêm bên giường bệnh của ông. Tôi mệt lả đến nỗi máu trào ra nơi mũi, nhức tôi không thể về thăm má tôi vì bà ấy đã đuổi tôi. Tôi không phiền trách vì tôi chỉ muốn chu toàn bổn phận của một đứa con gái. Má tôi sống với một trong số cái em gái tôi, được yêu thương hết mực. Khi bà 68 tuổi, bà bị đau đường tiểu và phải vào bệnh viện mà không có một ai săn sóc. Bà hỏi tôi: "Con oán má lắm phải không?". Tôi trả lời: "Dầu sao má cũng là người đã cưu mang con chín tháng muời ngày. Việc con săn sóc má bây giờ là bổn phận của con".
Suốt thời gian bà nằm trên giường bệnh, tôi đã trình bày giáo lý cho bà. Dù tin rằng có Chúa, nhưng bà không chấp nhận đạo Công Giáo vì đạo ấy không cho phép thờ tổ tiên... Tôi cầu xin Chúa giữ gìn bà mỗi khi bà kiệt lực. Trong một lúc hồi tỉnh lại, bà đã ngỏ ý gia nhập Giáo Hội, tôi bảo đảm với bà rằng Giáo Hội Công Giáo cho phép cúng vái tổ tiên (*). Bà cảm thấy rất yên tâm và lắng nghe Giáo Lý thêm bốn ngày nữa. Sau khi lãnh nhận phép rửa, bà đã thản nhiên đi vào chốn yên nghỉ đời đời:
(*) Người Công Giáo không tôn thờ tổ tiên, nhưng tôn kính và cầu nguyện cho tổ tiên.