Văn kiện Mater Populi Fidelis

của Bộ Giáo lý Ðức tin

 

Văn kiện Mater Populi Fidelis của Bộ Giáo lý Ðức tin.

Vũ Văn An

Vatican (VietCathyolic News 05-11-2025) - Văn kiện Mater Populi Fidelis của Bộ Giáo lý Ðức tin:

 

Bộ Giáo Lý Ðức Tin

Mater Populi Fidelis

Ghi chú Giáo lý về Một số Tước hiệu của Ðức Mẹ

Về Sự Hợp Tác của Ðức Maria trong Công trình Cứu Ðộ

 

Trình bầy

Ghi chú này đáp lại khá nhiều yêu cầu và đề xuất đã được gửi đến Tòa Thánh trong những thập niên gần đây, đặc biệt Bộ này, liên quan đến các vấn đề về lòng sùng kính Ðức Mẹ và một số tước hiệu Ðức Mẹ. Ðây là những vấn đề mà các Ðức Giáo Hoàng gần đây quan tâm và đã được đề cập nhiều lần trong ba mươi năm qua trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau của Bộ, chẳng hạn như các Ðại hội và Hội nghị Thường kỳ. Ðiều này đã cho phép Bộ biên soạn một khối lượng tài liệu phong phú và dồi dào, nuôi dưỡng suy tư này.

Trong khi minh xác ý nghĩa của một số tước hiệu và cách diễn đạt liên quan đến Ðức Mẹ, bản văn này cũng nhằm mục đích thâm hậu nền tảng đúng đắn của lòng sùng kính Ðức Mẹ bằng cách nêu rõ vị trí của Ðức Maria trong mối tương quan của Mẹ với các tín hữu dưới ánh sáng của Mầu nhiệm Chúa Kitô như Ðấng Trung Gian và Ðấng Cứu Chuộc duy nhất. Ðiều này đòi hỏi một lòng trung thành sâu sắc với bản sắc Công Giáo, đồng thời cũng đòi hỏi một nỗ lực đại kết đặc thù.

Chủ đề trung tâm xuyên suốt tất cả các trang này là tình mẫu tử của Ðức Maria đối với các tín hữu. Chủ đề này xuất hiện nhiều lần trong văn kiện, với những tuyên bố được nhắc lại nhiều lần, mỗi lần lại có những cân nhắc mới, làm phong phú và hoàn thiện chúng theo một vòng xoáy ốc.

Lòng sùng kính Thánh Mẫu, mà tình mẫu tử của Ðức Maria tạo ra, được trình bày ở đây như một kho tàng của Giáo hội. Lòng sùng kính của dân trung thành của Thiên Chúa- những người tìm thấy ở Ðức Maria nơi nương náu, sức mạnh, sự dịu dàng và hy vọng - không được suy gẫm ở đây để sửa chữa nó, nhưng trên hết, để trân trọng, ngưỡng mộ và khuyến khích nó. Bởi vì lòng sùng kính này là một biểu thức đầy huyền nhiệm và tượng trưng của một thái độ tin tưởng vào Chúa theo tinh thần Tin Mừng, mà Chúa Thánh Thần tự do khơi dậy trong các tín hữu. Thực thế, người nghèo "cũng tìm thấy tình yêu thương và lòng trìu mến của Thiên Chúa nơi khuôn mặt Ðức Maria. Nơi Mẹ, họ thấy phản chiếu thông điệp cốt lõi của Tin mừng."[1]

Tuy nhiên, có một số nhóm suy tư về Ðức Mẹ, các ấn phẩm, các chương trình sùng kính mới, và thậm chí cả những yêu cầu về tín điều Thánh Mẫu không có cùng đặc điểm với lòng sùng kính bình dân. Thay vào đó, cuối cùng, họ đề xuất một sự phát triển tín điều đặc thù và lên tiếng một cách mạnh mẽ thông qua mạng xã hội, thường gây hoang mang cho các tín hữu bình thường. Ðôi khi, những sáng kiến này thậm chí còn bao gồm việc diễn giải lại các cách diễn đạt đã được sử dụng trong quá khứ với nhiều ý nghĩa khác nhau. Tài liệu này xem xét những đề xuất như vậy để cho thấy một số người đáp lại lòng sùng kính Ðức Mẹ một cách chân chính ra sao nhờ được gợi hứng từ Tin mừng, và những người khác nên tránh chúng ra sao vì chúng không thúc đẩy việc chiêm niệm đúng đắn sự hài hòa của toàn bộ sứ điệp Kitô giáo.

Hơn nữa, nhiều đoạn trong Ghi chú này cung cấp một sự phát triển Kinh Thánh rộng lớn để cho thấy lòng sùng kính Thánh Mẫu chân chính không chỉ được tìm thấy trong Truyền thống phong phú của Giáo hội mà còn trong Kinh Thánh. Dấu ấn Kinh Thánh nổi bật của văn kiện này được đi kèm với các bản văn của các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, cũng như của các vị Giáo hoàng gần đây. Do đó, thay vì đề xuất những giới hạn, Ghi chú này tìm cách đồng hành và duy trì tình yêu của Ðức Maria và niềm tin vào sự chuyển cầu của Mẹ.

Hồng Y Victor Manuel Fernández

Bộ trưởng

- - - - - - - - - - - - - - - - - -

[1] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Ðại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Kết luận (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265. Ðược trích dẫn trong đoạn 78 của Ghi chú này.

 

Dẫn nhập

1. [Mater Populi Fidelis] Mẹ của Dân Trung thành [1] được các Kitô hữu nhìn với lòng trìu mến và ngưỡng mộ bởi vì, vì ân sủng làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, nên Ðức Maria là biểu thức hoàn hảo nhất của hành động Chúa Kitô biến đổi nhân tính của chúng ta. Mẹ là biểu hiện nữ tính của tất cả những gì ân sủng Chúa Kitô có thể thực hiện nơi một con người. Trước vẻ đẹp ấy và được tình yêu thương lay động, nhiều tín hữu trong suốt chiều dài lịch sử đã tìm cách dùng những lời lẽ mỹ miều nhất để ca ngợi vị trí đặc biệt của Mẹ bên Chúa Kitô.

2. Gần đây, Thánh Bộ này đã công bố các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Ðược cho là Siêu nhiên.[2] Một số danh xưng[3] và biểu thức thường được sử dụng để chỉ Ðức Trinh Nữ Maria liên quan đến những hiện tượng này. Tuy nhiên, những danh xưng này - một số đã xuất hiện trong các tác phẩm của các Giáo phụ - không phải lúc nào cũng được sử dụng chính xác, và ý nghĩa của chúng đôi khi bị thay đổi hoặc hiểu sai. Ngoài các vấn đề về thuật ngữ, một số danh xưng còn gây ra những khó khăn đáng kể về nội dung vì chúng thường có thể dẫn đến sự hiểu lầm về vai trò của Ðức Maria, điều này gây ra những hậu quả nghiêm trọng ở các bình diện Kitô học, Giáo hội học[4] và nhân học[5].

3. Vấn đề chính trong việc giải thích những danh hiệu đó khi áp dụng cho Ðức Trinh Nữ Maria là làm thế nào để hiểu mối liên hệ của ngài với công trình cứu chuộc của Chúa Kitô - tức là, "đâu là ý nghĩa của sự hợp tác độc đáo của Ðức Maria trong kế hoạch cứu rỗi?" [7] Tài liệu này, không có ý định bao quát hay trình bày cặn kẽ, nhưng tìm cách duy trì sự cân bằng cần thiết phải được thiết lập trong các mầu nhiệm Kitô giáo giữa sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô và sự cộng tác của Ðức Maria trong công trình cứu độ, và tìm cách cho thấy điều này được thể hiện như thế nào qua các tước hiệu khác nhau của Ðức Maria.

Sự Cộng Tác của Ðức Maria trong Công Trình Cứu Ðộ

4. Theo truyền thống, sự cộng tác của Ðức Maria trong công trình cứu độ được tiếp cận từ hai góc nhìn: sự tham gia của ngài vào công trình cứu chuộc khách quan mà Chúa Kitô đã hoàn thành trong cuộc đời trần thế của Người - đặc biệt là trong Mầu Nhiệm Vượt Qua - và ảnh hưởng mà ngài hiện đang có đối với những người đã được cứu chuộc. Thật vậy, hai vấn đề này có liên quan với nhau và không thể được xem xét tách biệt nhau.

5. Sự tham gia của Ðức Maria vào công trình cứu độ của Chúa Kitô được chứng thực trong Kinh Thánh, trình bày biến cố cứu độ được hoàn thành nơi Chúa Giêsu Kitô như một lời hứa trong Cựu Ước và như một sự ứng nghiệm trong Tân Ước. Ðức Maria được báo trước trong sách Sáng Thế 3:15 bởi vì ngài là người phụ nữ được chia sẻ chiến thắng cuối cùng trên con rắn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu gọi Ðức Maria là "Người Ðàn Bà [Woman]" trên đồi Can-va-ri-ô (Ga 19:26). Tương tự như vậy, tại Cana, Người gọi ngài là "Người Ðàn Bà" (Ga 2:4), ám chỉ Ðức Maria và vai trò của ngài, cùng với Người, trong "giờ" Thập Giá.

6. Trong "giờ" đó, sự hợp tác của Ðức Maria xuất hiện khi ngài lặp lại lời "Xin Vâng" của biến cố Truyền Tin. Trong khoảnh khắc thiêng liêng đó, Tin mừng chuyển từ việc đặt trên môi Chúa Giêsu từ "Người Ðàn Bà" (Ga 19:26) sang việc trình bầy ngài như "Mẹ" (Ga 19:27). Khi Tin mừng giải thích rằng, để đáp lại, người môn đệ (đại diện cho tất cả chúng ta) đã đón nhận ngài, Tin mừng sử dụng một động từ (lamban...), trong Tin mừng này, mang nghĩa "đón nhận" vì đức tin (x. Ga 1:11-12; 5:43; và 13:20). Tin mừng thứ tư sử dụng cùng động từ này để diễn tả việc Ánh Sáng đã đến với những người thuộc về Người, nhưng họ đã không "đón nhận" Người (Ga 1:11). Nói cách khác, người môn đệ thay thế chúng ta bên cạnh Ðức Maria đã đón nhận Mẹ như một người mẹ trong đức tin. Chỉ sau khi trao phó chúng ta cho Ðức Maria làm mẹ, Chúa Giêsu mới thừa nhận rằng "mọi sự đã hoàn tất" (Ga 19:28). Sự ám chỉ long trọng này về sự hoàn tất ngăn chặn mọi diễn giải hời hợt về sự kiện này. Tình mẫu tử của Ðức Maria đối với chúng ta là một phần của sự hoàn tất kế hoạch thần linh, được thực hiện trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Tương tự như vậy, Sách Khải Huyền trình bày "Người Ðàn Bà" (Kh 12:1) là mẹ của Ðấng Mê-xi-a (x. Kh 12:5) và là mẹ của "những người con khác của bà" (Kh 12:17).

7. Cần nhớ rằng Ðức Maria thành Na-da-rét có thể được coi là "nhân chứng đặc ân"[8] của các biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu[9] xuất hiện trong các sách Tin mừng (x. Lc 1-2; Mt 1-2). Trong lời tựa của Tin mừng, Luca thông báo cho độc giả rằng "vì nhiều người đã bắt tay vào việc biên soạn một trình thuật về những điều đã được thực hiện giữa chúng ta, đúng như những người đã chứng kiến từ ban đầu đã truyền lại cho chúng ta", nên ngài cũng quyết định "điều tra lại mọi sự một cách chính xác" (Lc 1:1-3). Trong số những nhân chứng đó, Ðức Maria nổi bật như là nhân vật chính trực tiếp trong việc thụ thai, sinh ra và thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Ðiều tương tự cũng có thể nói về các tường thuật về Cuộc Khổ Nạn, vì Ðức Maria "đứng gần thập giá Chúa Giêsu" với tư cách là "mẹ Người" (Ga 19:25), và cũng nói về giai đoạn trước Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông đồ "chuyên tâm cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Ðức Maria, mẹ Chúa Giêsu" (Cv 1:14).

8. Tin mừng Luca trình bày Ðức Maria như "Con Gái Xion" mới, người đón nhận và truyền lại niềm vui cứu độ. Luca thu thập những lời hứa tiên tri báo trước niềm vui cứu thế (x. Xp 3:14-17; Dcr 9:9). Nơi Ðức Maria, những lời hứa đó được ứng nghiệm, khiến Gioan Tẩy Giả nhảy mừng (x. Lc 1:41). Bà Êlisabét tự nhận mình không xứng đáng được Ðức Maria viếng thăm, bà nói: "Tôi là ai mà Mẹ Chúa tôi đến với tôi?" (Lc 1:43). Bà không nói: "Tôi là ai mà Chúa tôi đến với tôi?" nhưng đề cập trực tiếp đến người mẹ, qua đó chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời giữa sứ mệnh của Chúa Kitô và sứ mệnh của Ðức Maria. Bà Êlisabét nói đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,41), do đó thái độ của bà đối với Ðức Maria được trình bày như một mẫu gương về đức tin. Sau đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, bà Êlisabét nói: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang được chúc phúc!" (Lc 1,42). Ðiều đáng chú ý là, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, việc bà gọi Chúa Giêsu là "có phúc" là chưa đủ; bà cũng gọi mẹ của Người là "có phúc", nhận thức rằng họ đã kết hợp mật thiết trong khoảnh khắc vui mừng của Ðấng Thiên Sai này. Ở đây, Ðức Maria xuất hiện như một người được chúc phúc một cách trổi vượt: "Phúc cho em là người đã tin" (Lc 1,45); "thần trí tôi vui mừng" (Lc 1,47); "mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc" (Lc 1,48). Mô tả này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta lưu ý rằng, trong Tin mừng Luca, phúc lành này không được xem như một trạng thái tinh thần mà là sự ứng nghiệm lời hứa về Ðấng Mê-xi-a giữa những người bé nhỏ (x. Lc 6:20-22), những người sẽ nhận được "phần thưởng lớn lao" (Lc 6:23).

9. Về sự phát triển thần học của những chủ đề này trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, các Giáo phụ chủ yếu quan tâm đến chức làm mẹ thần linh của Ðức Maria (Theotokos), sự đồng trinh trọn đời (Aeiparthenos), sự thánh thiện hoàn hảo của Ðức Maria như một người không hề vướng bận tội lỗi suốt cuộc đời (Panagia), và vai trò của Ðức Maria là Evà Mới,[10] suy tư về sự liên kết của Ðức Maria với Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô trong bối cảnh mầu nhiệm Nhập thể. Lời "Xin Vâng" của Ðức Maria với sứ điệp của sứ thần Gabriel - để Ngôi Lời Thiên Chúa có thể trở nên xác phàm trong cung lòng Mẹ (x. Lc 1,26-37) - mở ra cho nhân loại khả thể thần hóa. Vì lý do này, Thánh Augustinô gọi Ðức Trinh Nữ là "người cộng tác" vào Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô, qua đó nhấn mạnh cả hành động của Ðức Maria bên cạnh Chúa Kitô cũng như sự tùng phục của Mẹ đối với Người, vì Ðức Maria cộng tác với Chúa Kitô để "các tín hữu có thể được sinh ra trong Giáo hội."[11] Vì lý do này, chúng ta có thể gọi Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa.

10. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, việc suy tư về Ðức Trinh Nữ Maria trong Giáo hội không thể tách rời khỏi phụng vụ. Sự đa dạng to lớn và phong phú của các truyền thống phụng vụ Kitô giáo Ðông phương đã tìm cách trở thành tiếng vang trung thành của Kinh Thánh, các Công đồng và các Giáo phụ. Lex orandi, sau này phát triển thành lex credendi, đã định hình nên Thánh mẫu học Ðông phương thông qua nghệ thuật thánh ca, nghệ thuật biểu tượng và lòng đạo đức bình dân.[12] Ví dụ, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, các lễ kính Ðức Mẹ Maria đầu tiên được thiết lập ở Ðông phương và sau đó, bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy, lan sang phương Tây. Các Giáo hội Ðông phương tưởng niệm sự tham gia của Mẹ Thiên Chúa vào công trình cứu độ không chỉ trong các kinh anaphora và phụng vụ Thánh Thể mà trên hết, thông qua các bản văn thánh ca được sử dụng trong các Giờ kinh chính thức của họ, hiện diện trong các truyền thống phụng vụ khác nhau của Kitô giáo Ðông phương. Tuyển tập thánh ca của họ đầy rẫy những sáng tác dành riêng cho Ðức Maria, với những ẩn dụ Kinh Thánh,[13] cho phép đào sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể và ý nghĩa của mầu nhiệm này đối với ơn cứu chuộc của chúng ta trong Chúa Kitô. Những thánh ca này sử dụng ngôn ngữ đầy tính biểu tượng thi ca, có khả năng truyền tải sự kinh ngạc và thán phục của những ai - mang cùng bản tính với Ðức Maria - chiêm ngưỡng những kỳ công mà Ðấng Toàn Năng đã thực hiện nơi Mẹ.[14]

11. Giáo huấn của các Công đồng Chung đầu tiên bắt đầu phác họa tín điều về Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sau này được công bố tại Công đồng Êphêsô. Kitô giáo Ðông phương luôn duy trì các tín điều được xác định bởi các công đồng đầu tiên này, ít nhất là trong số các Giáo hội đã chấp nhận Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan. Ðồng thời, trong các truyền thống phụng vụ, thánh ca và biểu tượng của mình, Kitô giáo Ðông phương đã tiếp nhận những câu chuyện và truyền thuyết phổ biến về Ðức Maria về thời thơ ấu và cái chết của Chúa Giêsu. Những tường thuật như vậy tìm cách nuôi dưỡng lòng đạo đức của dân Chúa bằng cách cất lên tiếng nói trữ tình của những hình ảnh thi ca, với mục đích duy nhất là khơi dậy sự kinh ngạc. Lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa này cũng được thể hiện qua nghệ thuật ảnh tượng, cung cấp hình ảnh mô tả về Ðức Maria và Ngôi Lời Nhập Thể. Ðiều đáng chú ý là các ảnh tượng truyền thống của những Giáo hội này - có liên hệ với các Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan - chủ yếu miêu tả Ðức Maria là "Theotokos" ("Mẹ Thiên Chúa").[15] Các ảnh tượng thuộc loại này được tạo ra để chiêm ngưỡng Ðức Trinh Nữ Maria, người trình diện Con mình, Chúa Giêsu Hài Ðồng, cho thế giới và ôm lấy Người trong khi cũng cầu bầu cho nhân loại trước Người. Do đó, nghệ thuật ảnh tượng Ðức Maria Ðông phương, như một giáo lý sơ truyền [kerygma] và lời nhắc nhở trực quan đầy màu sắc về thần học của các Công đồng sơ khai và các Giáo phụ, tìm cách trở thành bản dịch trực quan của các tước hiệu được áp dụng riêng cho Ðức Trinh Nữ.[16] Vì lý do này, các ảnh tượng phải được "đọc" dưới ánh sáng của phụng vụ và các thánh ca của Giáo hội. Ðức Maria không phải là đối tượng của lòng sùng kính được đặt cạnh Chúa Kitô, nhưng Mẹ được đưa vào mầu nhiệm Chúa Kitô qua mầu nhiệm Nhập Thể.[17] Mẹ là ảnh tượng trong đó Chúa Kitô được tôn kính. Mẹ là Theotokos, Ðức Mẹ Ðồng Trinh, Ðấng trao ban Con mình, Chúa Giêsu Kitô, cho chúng ta. Ðồng thời, Mẹ cũng là Odegetria, Ðấng dùng tay chỉ cho chúng ta Con Ðường duy nhất, đó là Chúa Kitô.

12. Bắt đầu từ thế kỷ XII, thần học phương Tây[18] đã hướng sự chú ý đến mối tương quan gắn kết Ðức Mẹ Ðồng Trinh với mầu nhiệm Cứu Chuộc đẫm máu của Chúa Kitô trên đồi Can-va-ri-ô, liên kết lời tiên tri của Si-mê-ong về lưỡi gươm với Thập Giá của Chúa Kitô. Sự hiện diện của Ðức Maria dưới chân Thập Giá được xem là dấu chỉ của lòng kiên cường Kitô giáo, tràn đầy tình mẫu tử. Thánh Ber-na-đô thành Clairvaux đã nói về sự cộng tác của Ðức Mẹ vào hy lễ cứu chuộc khi bình luận về việc Dâng Chúa Giêsu trong Ðền Thờ.[19] Arnold, một người bạn của Thánh Ber-na-đô và là viện phụ dòng Biển Ðức ở Bonneval (sau năm 1159), là người đầu tiên xem xét sự hợp tác của Ðức Maria với hy lễ trên đồi Can-va-ri-ô, đứng cạnh Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô.[20]

13. Sự hợp tác của Ðức Mẹ với Con của Mẹ trong công trình Cứu Ðộ đã được Huấn quyền Giáo hội dạy.[21] Như Công đồng Vatican II tuyên bố, "vì vậy, các Giáo phụ thánh thiện đã đúng khi nhìn Ðức Maria không chỉ là một dụng cụ thụ động trong tay Thiên Chúa, mà còn là người tự do cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại qua đức tin và sự vâng phục." [22] Sự cộng tác này không chỉ hiện diện trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu (khi thụ thai, sinh ra, tử nạn và Phục sinh) mà còn trong suốt cuộc đời của Giáo hội.

14. Tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội làm nổi bật tính ưu việt và duy nhất của Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, vì tín điều này dạy rằng Ðức Maria - người đầu tiên được cứu chuộc - đã được Chúa Kitô cứu chuộc và được Chúa Thánh Thần biến đổi, trước bất cứ hành động nào có thể xảy ra của chính mình.[23] Từ điều kiện đặc biệt này là người đầu tiên được Chúa Kitô cứu chuộc và người đầu tiên được Chúa Thánh Thần biến đổi, Ðức Maria có thể cộng tác mạnh mẽ và sâu sắc hơn với Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, trở thành nguyên mẫu,[24] khuôn mẫu và tấm gương cho những gì Thiên Chúa muốn thực hiện nơi mỗi người được cứu chuộc.[25]

15. Sự cộng tác của Ðức Maria vào công trình cứu độ mang cấu trúc Ba Ngôi, vì đó là hoa trái sáng kiến của Chúa Cha, Ðấng "đã đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Người" (Lc 1,48); nó phát xuất từ sự tự hủy của Chúa Con, Ðấng đã hạ mình xuống mặc lấy thân phận tôi tớ (x. Pl 2,7-8); và đó là hiệu quả của ân sủng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,28.30), Ðấng đã chuẩn bị tâm hồn người thiếu nữ thành Na-da-rét để đáp lại lời Truyền Tin và trong suốt cuộc đời hiệp thông với Chúa Con. Thánh Phaolô VI dạy rằng "nơi Ðức Trinh Nữ Maria, mọi sự đều quy chiếu về Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người. Chính vì hướng về Chúa Kitô mà Thiên Chúa Cha, từ muôn đời, đã chọn Mẹ làm Mẹ thánh thiện và trang điểm cho Mẹ bằng những hồng ân của Chúa Thánh Thần mà không ai khác có thể ban cho Mẹ."[26] Lời "Xin Vâng" của Ðức Maria không chỉ là một điều kiện tiên quyết cho một điều gì đó có thể được thực hiện mà không cần sự đồng ý và hợp tác của Mẹ. Chức làm mẹ của Mẹ không chỉ mang tính sinh học, cũng không thụ động về bản chất,[27] mà là một chức làm mẹ "hoàn toàn chủ động"[28], được kết hợp với mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô như một khí cụ mà Chúa Cha đã muốn trong kế hoạch cứu độ của Người. Mẹ là "bảo chứng cho thấy Người thực sự là người, 'sinh ra bởi một người nữ' (Gl 4:4)" và, sau khi tín điều Ni-xê-a được công bố, Mẹ cũng được nhìn nhận như là "Theotokos, Ðấng cưu mang Thiên Chúa."[29]

Những danh xưng ám chỉ sự cộng tác của Ðức Maria trong công trình cứu độ

16. Trong số những danh xưng được dùng để kêu cầu Ðức Maria ("Mẹ của Lòng Thương Xót," "Niềm Hy Vọng của Người Nghèo," "Phù Hộ các Kitô Hữu," "Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp," "Ðấng Bào Chữa cho chúng ta," v.v.), có một số danh xưng nhấn mạnh hơn đến sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, chẳng hạn như "Ðồng Công Cứu Chuộc" và "Ðấng Trung Gian."

Ðồng Công Cứu Chuộc

17. Danh xưng "Ðồng Cứu Chuộc" xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ XV như một sự sửa đổi cho lời cầu khẩn "Redemptrix" (viết tắt của danh xưng "Mẹ Ðấng Cứu Chuộc"), vốn được gán cho Ðức Maria từ thế kỷ X. Thánh Ber-na-đô đã dành cho Ðức Maria một vai trò dưới chân Thánh Giá, từ đó nảy sinh danh xưng "Ðồng Công Cứu Chuộc", xuất hiện lần đầu tiên trong một bài thánh ca khuyết danh từ Salzburg vào thế kỷ XV.[30] Mặc dù danh xưng "Redemptrix" vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ XVI và XVII, nhưng nó đã hoàn toàn biến mất vào thế kỷ XVIII, và được thay thế bằng danh xưng "Ðồng Công Cứu Chuộc". Nghiên cứu thần học về sự cộng tác của Ðức Maria vào Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô trong nửa đầu thế kỷ XX đã dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa của danh xưng "Ðồng Công Cứu Chuộc".[31]

18. Một số vị Giáo hoàng đã sử dụng tước hiệu "Ðồng Công Cứu Chuộc" mà không giải thích nhiều về ý nghĩa của nó.[32] Nhìn chung, các ngài đã trình bày tước hiệu này theo hai cách chuyên biệt: ám chỉ đến chức làm Mẹ Thiên Chúa của Ðức Maria (trong chừng mực ngài, với tư cách là Mẹ, đã làm cho Công trình Cứu Chuộc được Chúa Kitô hoàn thành[33] trở thành khả hữu) hoặc ám chỉ đến sự kết hợp của Mẹ với Chúa Kitô trên Thập Giá cứu chuộc.[34] Công đồng Vatican II đã tránh sử dụng tước hiệu này vì lý do tín lý, mục vụ và đại kết. Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Ðức Maria là "Ðồng Công Cứu Chuộc" ít nhất bảy lần, đặc biệt liên hệ tước hiệu này với giá trị cứu độ của những đau khổ của chúng ta khi chúng được dâng hiến cùng với những đau khổ của Chúa Kitô, Ðấng mà Ðức Maria được kết hợp đặc biệt trên Thập Giá.[35]

19. Trong phiên họp Thường lệ (Feria) IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, Ðức Hồng Y Joseph Ratzinger, lúc đó là Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Ðức Tin, đã được hỏi liệu yêu cầu của phong trào Vox Populi Mariae Mediatrici về việc định nghĩa một tín điều tuyên bố Ðức Maria là "Ðấng Ðồng Cứu Chuộc" hay "Ðấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng" có được chấp nhận hay không. Trong ý kiến cá nhân, ngài trả lời: "Phản đối. Ý nghĩa chính xác của những tước hiệu này không rõ ràng, và giáo lý chứa đựng trong đó chưa chín muồi. Một giáo lý được định nghĩa về đức tin thần linh thuộc về Depositum Fidei - tức là thuộc về mặc khải thần linh được truyền đạt trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ. Tuy nhiên, không rõ giáo lý được diễn đạt trong những tước hiệu này hiện diện như thế nào trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ."[36] Sau đó, vào năm 2002, ngài đã công khai bày tỏ quan điểm phản đối Việc sử dụng danh xưng này: "Công thức 'Ðồng Công Cứu Chuộc' đi quá xa khỏi ngôn ngữ của Kinh Thánh và của các Giáo Phụ, và do đó gây ra nhiều hiểu lầm... Mọi sự đều đến từ Người [Chúa Kitô], như Thư gửi tín hữu Êphêsô và đặc biệt là Thư gửi tín hữu Côlôsê đã cho chúng ta biết; Ðức Maria cũng là tất cả những gì Mẹ là nhờ Người. Hạn từ 'Ðồng Công Cứu Chuộc' sẽ làm lu mờ nguồn gốc này." Mặc dù Ðức Hồng Y Ratzinger không phủ nhận rằng có thể có những ý định tốt và những khía cạnh giá trị trong đề xuất sử dụng danh xưng này, nhưng ngài vẫn cho rằng chúng "đang được diễn đạt sai lầm". [37]

20. Ðức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ đã nhắc đến Thư gửi tín hữu Ê-phê-sô và Cô-lô-se, trong đó từ vựng và sức mạnh thần học của các bài thánh ca trình bày vị trí trung tâm cứu chuộc độc đáo của Chúa Con nhập thể theo cách không chừa chỗ cho bất cứ hình thức trung gian nào khác - vì "mọi phước lành thiêng liêng" được ban cho chúng ta "trong Ðức Kitô" (Ê-phê-sô 1:3); chúng ta được nhận làm con cái nhờ Người (x. Ê-phê-sô 1:5); trong Người, chúng ta đã được ban ân sủng (x. Ê-phê-sô 1:6); "chúng ta được cứu chuộc nhờ máu Người" (Ê-phê-sô 1:7); và ân sủng của Người đã "được ban tràn đầy cho chúng ta" (Ê-phê-sô 1:8). "Trong Người, chúng ta đã được thừa hưởng gia nghiệp, vì đã được tiền định" (Ê-phê-sô 1:11). Trong Người, "tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa đã vui lòng ngự trị" (Cl 1:19), và vì Người và qua Người, Thiên Chúa đã muốn "hòa giải muôn vật" (Cl 1:20). Lời ca ngợi vị thế độc nhất của Chúa Kitô như vậy mời gọi chúng ta đặt mọi thụ tạo vào một vị thế sẵn sàng đón nhận Người và luôn thận trọng, cung kính mỗi khi đề xuất bất cứ hình thức hợp tác nào với Người trong lãnh vực Cứu Chuộc.

21. Ít nhất ba lần, Ðức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ sự phản đối rõ ràng việc sử dụng danh hiệu "Ðồng Công Cứu Chuộc", lập luận rằng Ðức Maria "không bao giờ muốn chiếm đoạt bất cứ điều gì của Con mình cho riêng mình. Mẹ không bao giờ tự nhận mình là Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc. Không, Mẹ chỉ là một môn đệ."[38] Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là hoàn hảo và không cần thêm thắt; do đó, "Ðức Mẹ không muốn tước bỏ bất cứ danh hiệu nào của Chúa Giêsu... Mẹ không xin cho mình trở thành một Ðấng bán cứu chuộc hay một Ðấng đồng cứu chuộc: không. Chỉ có một Ðấng Cứu Chuộc, và danh hiệu này không thể bị sao chép."[39] Chúa Kitô "là Ðấng Cứu Chuộc duy nhất; không có Ðấng đồng cứu chuộc nào với Chúa Kitô."[40] Vì "hy lễ Thập Giá, được dâng lên trong tinh thần yêu thương và vâng phục, mang đến sự thỏa mãn dồi dào và vô hạn nhất."[41] Mặc dù chúng ta có thể mở rộng hiệu quả của nó trên thế giới (x. Cl 1:24), nhưng cả Giáo Hội lẫn Ðức Maria đều không thể thay thế hoặc hoàn thiện công trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa nhập thể, vốn đã hoàn hảo và không cần thêm thắt.

22. Vì cần phải giải thích vai trò phụ thuộc của Ðức Maria đối với Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, nên sẽ không thích hợp nếu dùng danh hiệu "Ðồng công Cứu Chuộc" để định nghĩa sự hợp tác của Ðức Maria. Danh xưng này có nguy cơ làm lu mờ sự trung gian cứu độ độc nhất của Chúa Kitô và do đó có thể tạo ra sự nhầm lẫn và mất cân bằng trong sự hài hòa của các chân lý đức tin Kitô giáo, vì "ngoài Người ra, không có ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ" (Cv 4,12). Khi một thành ngữ đòi hỏi nhiều giải thích lặp đi lặp lại để tránh đi chệch khỏi ý nghĩa đúng đắn, thì thành ngữ đó không phục vụ cho đức tin của dân Chúa và trở nên vô ích. Trong trường hợp này, thành ngữ "Ðồng công cứu chuộc" không giúp tôn vinh Ðức Maria là người cộng tác đầu tiên và quan trọng nhất trong công trình Cứu chuộc và ân sủng, vì nó mang nguy cơ làm lu mờ vai trò độc nhất của Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa làm người vì ơn cứu độ của chúng ta, là Ðấng duy nhất có khả năng dâng lên Chúa Cha một hy lễ vô giá - mà điều đó cũng sẽ không phải là một vinh dự đích thực cho Mẹ của Người. Thật vậy, với tư cách là "nữ tỳ của Chúa" (Lc 1:38), Ðức Maria hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô và yêu cầu chúng ta "hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các con làm" (Ga 2:5).

Ðấng Trung Gian

23. Khái niệm trung gian xuất hiện trong các Giáo phụ Ðông phương từ thế kỷ thứ sáu. Trong các thế kỷ tiếp theo, Thánh Anrê thành Crete[42], Thánh Germanô thành Constantinople[43] và Thánh Gioan Ðamascenô[44] đã sử dụng danh hiệu này với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ở phương Tây, thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên hơn từ thế kỷ thứ mười hai, mặc dù nó không được chính thức công nhận là một luận đề giáo lý cho đến thế kỷ thứ mười bảy. Năm 1921, Ðức Hồng Y Mercier, Tổng Giám mục Mechelen - với sự hợp tác học thuật của Ðại học Công Giáo Louvain và sự hỗ trợ của các giám mục, giáo sĩ và giáo dân Bỉ - đã kiến nghị Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XV ban hành một định nghĩa tín lý về sự trung gian phổ quát của Ðức Maria. Tuy nhiên, Ðức Thánh Cha đã không chấp thuận yêu cầu này; ngài chỉ chấp thuận một ngày lễ với Thánh lễ riêng và Phụng vụ Ðức Maria Trung Gian.[45] Từ đó cho đến năm 1950, nghiên cứu thần học về vấn đề này tiếp tục phát triển cho đến giai đoạn chuẩn bị của Công đồng Vatican II. Công đồng không đưa ra các tuyên bố tín điều[46] nhưng ưu tiên trình bày một tổng hợp sâu rộng "của giáo lý Công Giáo về vị trí dành cho Ðức Trinh Nữ Maria trong trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội Thánh."[47]

24. Lời Kinh Thánh về vai trò trung gian độc nhất của Chúa Kitô là lời kết luận chắc chắn. Chúa Kitô là Ðấng Trung Gian duy nhất, "vì chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là con người Ðức Kitô Giêsu, Ðấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người" (1 Tm 2:5-6). Hội Thánh đã làm sáng tỏ vị trí độc nhất này của Chúa Kitô dựa trên sự kiện Người là Con Thiên Chúa vĩnh cửu và vô hạn, được kết hợp ngôi vị với nhân tính mà Người đã đảm nhận. Ðiều này chỉ dành riêng cho nhân tính của Chúa Kitô, và những hệ quả phát sinh từ đó chỉ có thể được áp dụng đúng đắn cho Người. Theo nghĩa chính xác này, vai trò của Ngôi Lời Nhập Thể là độc nhất và duy nhất. Với sự rõ ràng này trong Lời Chúa được mặc khải, cần đặc biệt thận trọng khi áp dụng thuật ngữ "Ðấng Trung Gian" cho Ðức Maria. Ðể đối phó với xu hướng mở rộng phạm vi hợp tác của Ðức Maria thông qua danh hiệu này, việc xác định phạm vi giá trị cũng như giới hạn của nó là rất hữu ích.

25. Một mặt, chúng ta không thể bỏ qua sự kiện hạn từ "trung gian" thường được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống thường nhật, nơi nó được hiểu đơn giản là sự hợp tác, hỗ trợ hoặc chuyển cầu. Do đó, không thể tránh khỏi việc thuật ngữ này được áp dụng cho Ðức Maria theo nghĩa phụ thuộc. Ðược sử dụng theo cách này, nó không có ý định thêm bất cứ hiệu lực hay sức mạnh nào cho sự trung gian độc nhất của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật.

26. Mặt khác, rõ ràng là Ðức Maria đã có một vai trò trung gian thực sự trong việc cho phép Con Thiên Chúa Nhập Thể trong nhân loại chúng ta, vì Ðấng Cứu Chuộc sẽ được "sinh ra bởi một người nữ" (Gal 4:4). Trình thuật Truyền Tin cho thấy điều này không chỉ liên quan đến một sự trung gian sinh học vì nó làm nổi bật sự tham gia tích cực của Ðức Maria trong việc đặt câu hỏi (x. Lc 1:29, 34) và chấp nhận với một quyết tâm vững chắc: "xin vâng" (Lc 1:38). Lời đáp trả của Ðức Maria đã mở ra cánh cổng Cứu Chuộc mà toàn thể nhân loại đã mong đợi và được các thánh mô tả bằng một vở kịch đầy chất thơ.[48] Tại tiệc cưới Cana, Ðức Maria cũng hoàn thành vai trò trung gian khi ngài trình bày nhu cầu của đôi tân hôn với Chúa Giêsu (x. Ga 2:3) và hướng dẫn các gia nhân tuân theo chỉ dẫn của Người (x. Ga 2:5).

27. Thuật ngữ của Công đồng Vatican II về sự trung gian chủ yếu ám chỉ Chúa Kitô; đôi khi cũng ám chỉ Ðức Maria, nhưng theo một cách rõ ràng là phụ thuộc.[49] Thực tế, Công đồng thích sử dụng một thuật ngữ khác cho Mẹ: một thuật ngữ tập trung vào sự hợp tác[50] hay sự trợ giúp của người mẹ.[51] Giáo huấn của Công đồng đã hình thành rõ ràng quan điểm về sự chuyển cầu của người mẹ, sử dụng các thành ngữ như "sự chuyển cầu đa dạng" và "sự trợ giúp của người mẹ".[52] Hai khía cạnh này cùng nhau xác định bản chất cụ thể của sự hợp tác của Ðức Maria vào hành động của Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần. Nói một cách chính xác, chúng ta không thể nói về bất cứ sự trung gian nào khác trong ân sủng ngoài sự trung gian của Con Thiên Chúa nhập thể.[53] Do đó, chúng ta phải luôn nhớ lại, và không bao giờ được che giấu, niềm xác tín Kitô giáo rằng "phải được tin vững chắc như một yếu tố thường hằng của đức tin Giáo hội" liên quan đến "chân lý của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa và Ðấng Cứu Ðộ duy nhất, qua biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh, đã đưa lịch sử cứu độ đến chỗ viên mãn, và lịch sử ấy đặt nơi Người sự viên mãn và trung tâm của nó."[54]

Ðức Maria trong sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô

28. Ðồng thời, chúng ta cần nhớ rằng tính duy nhất [unicity] trong sự trung gian của Chúa Kitô có tính "bao hàm [inclusive]". Người ban cho chúng ta nhiều hình thức tham gia vào kế hoạch cứu độ của Người, bởi vì, khi hiệp thông với Người, tất cả chúng ta, một cách nào đó, có thể trở thành những người cộng tác với Thiên Chúa và là "trung gian" cho nhau (x. 1 Cr 3,9). Chính nhờ quyền năng vô biên của Chúa Kitô, Người có thể nâng anh chị em mình lên, giúp họ có khả năng cộng tác đích thực vào việc hoàn thành kế hoạch của Người. Công đồng Vatican II khẳng định rằng "sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Chuộc không loại trừ nhưng đúng hơn, tạo nên một sự hợp tác đa dạng, chỉ là sự thông phần vào một nguồn mạch duy nhất."[55] Vì lý do này, "nội dung của sự trung gian tham gia này cần được đào sâu hơn, nhưng phải luôn nhất quán với nguyên lý trung gian duy nhất của Chúa Kitô."[56] Thật vậy, Giáo Hội trải dài trong thời gian và thông truyền khắp nơi những hiệu quả của Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô,[57] và Ðức Maria giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của Mẹ Giáo Hội.[58]

29. Sự tham gia của Ðức Maria vào công trình của Chúa Kitô trở nên rõ ràng khi chúng ta bắt đầu từ niềm xác tín rằng Chúa Phục Sinh thúc đẩy, biến đổi, và cho phép các tín hữu cộng tác với Người trong công việc của Người. Ðiều này không xảy ra do sự yếu đuối, bất lực, hay nhu cầu nào đó từ phía Chúa Kitô, nhưng là do quyền năng vinh quang của Người, quyền năng có thể đón nhận chúng ta, một cách rộng lượng và tự do, như những người cộng tác trong công việc của Người. Ðiều cần nhấn mạnh trong trường hợp này là khi Chúa Kitô cho phép chúng ta đồng hành với Người và - dưới sự thúc đẩy của ân sủng Người - cống hiến hết mình, thì cuối cùng chính quyền năng và lòng thương xót của Người được tôn vinh.

Sinh hoa trái trong Chúa Kitô Vinh Hiển

30. Ðoạn văn sau đây đặc biệt soi sáng liên quan đến chủ đề này: "Ai tin vào Ta cũng sẽ làm những việc Ta làm; và họ sẽ làm những việc lớn lao hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha" (Ga 14:12). Các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô phục sinh, Ðấng đã trở về bên hữu Chúa Cha, có thể thực hiện những việc vượt xa những kỳ công mà Chúa Giêsu trần thế đã làm, nhưng luôn luôn nhờ sự kết hợp của họ với Chúa Kitô vinh quang qua đức tin. Ðiều này được chứng minh, chẳng hạn, qua sự mở rộng kỳ diệu của Hội Thánh sơ khai, khi Ðấng Phục Sinh chia sẻ công việc này với Hội Thánh của Người (x. Mc 16:15). Bằng cách này, vinh quang của Chúa Kitô không hề bị suy giảm mà còn được làm cho hiển thị hơn nữa, tực cho thấy mình là một quyền lực có khả năng biến đổi các tín hữu và làm cho họ sinh hoa kết trái cùng với Người.

31. Trong số các Giáo Phụ, ý tưởng này đã được diễn đạt rõ nét trong các bài chú giải của họ về Ga 7:37-39, vì một số người đã giải thích lời hứa của Chúa Kitô về "những dòng nước hằng sống" là ám chỉ đến các tín hữu. Theo cách giải thích này, chính các tín hữu, được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Kitô, trở thành nguồn suối cho người khác. Origen giải thích rằng Chúa thực hiện những gì Người đã loan báo trong Gioan 7:38 bằng cách làm cho những dòng nước chảy ra từ chúng ta: "linh hồn con người, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, tự nó có thể chứa đựng và tuôn trào những giếng nước, suối nguồn và sông ngòi."[59] Thánh Ambrôsiô đã khuyên chúng ta hãy uống từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, "để mạch nước tuôn trào dẫn đến sự sống đời đời có thể tràn ngập trong anh em."[60] Thánh Tôma Aquinô đã diễn tả điều này bằng cách nói rằng nếu một tín hữu "vội vàng chia sẻ những ân huệ khác nhau đã nhận được từ Thiên Chúa, thì nước hằng sống sẽ tuôn chảy từ trái tim người ấy."[61]

32. Nếu điều này đúng với mỗi tín hữu - những người mà sự cộng tác với Chúa Kitô ngày càng sinh hoa kết quả đến mức người ấy để mình được biến đổi bởi ân sủng - thì điều này càng phải được khẳng định nơi Ðức Maria một cách độc đáo và tối cao biết bao. Bởi vì Mẹ là Ðấng "đầy ân sủng" (Lc 1:28) và là Ðấng đã nói, mà không hề gây trở ngại cho công trình của Thiên Chúa: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38). Mẹ là Mẹ đã ban cho thế gian Ðấng Cứu Chuộc và Ân Sủng, đã đứng vững dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), chịu đau khổ bên cạnh Con mình và dâng lên nỗi đau của trái tim người mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2,35). Từ khi Nhập Thể đến thập giá và Phục Sinh, Mẹ đã kết hợp với Chúa Kitô theo cách độc nhất vô nhị và vượt xa bất cứ tín hữu nào khác.

33. Tất cả những điều này không phải do công trạng riêng của Mẹ, nhưng bởi vì công trạng của Chúa Kitô trên Thập Giá đã được áp dụng trọn vẹn cho Mẹ - một cách đặc biệt và tiên báo - để tôn vinh Chúa và Ðấng Cứu Ðộ duy nhất.[62] Cuối cùng, Mẹ là một bài ca ngợi hiệu năng của ân sủng Thiên Chúa, đến nỗi bất cứ sự công nhận nào về vẻ đẹp của Mẹ đều ngay lập tức hướng về sự tôn vinh nguồn mạch nguyên thủy của mọi điều tốt lành: Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự vĩ đại vô song của Ðức Maria nằm ở những gì Mẹ đã lãnh nhận và trong sự sẵn sàng tin tưởng của Mẹ để cho Chúa Thánh Thần chiếm hữu mình. Khi chúng ta cố gắng gán cho Mẹ những vai trò tích cực song song với vai trò của Chúa Kitô, chúng ta đang rời xa vẻ đẹp vô song vốn chỉ có ở Mẹ. Cụm từ "sự trung gian tham dự" có thể diễn tả một ý nghĩa chính xác và quý giá về vai trò của Ðức Maria, nhưng nếu bị hiểu sai, nó có thể dễ dàng làm lu mờ hoặc thậm chí mâu thuẫn với vai trò đó. Sự trung gian của Chúa Kitô, trong một số khía cạnh có thể là "bao gồm" hoặc được chia sẻ, trong những khía cạnh khác lại là loại trừ và không thể truyền đạt.

Mẹ của các tín hữu

34. Trong trường hợp của Ðức Maria, sự trung gian này diễn ra theo cách của một người mẹ,[63] giống như Mẹ đã làm ở Cana[64] và như đã được xác nhận trên thập giá.[65] Ðức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích điều này như sau: "Mẹ là một người Mẹ. Và đây là danh hiệu Mẹ đã nhận được từ Chúa Giêsu, ngay tại đó, vào lúc thập giá (x. Ga 19:26-27). Các con của Mẹ, Mẹ là Mẹ# Mẹ đã nhận được hồng ân làm Mẹ của Người và bổn phận đồng hành với chúng con như Mẹ, làm Mẹ chúng con."[66]

35. Danh xưng "Mẹ" bắt nguồn từ Kinh Thánh và các Giáo Phụ. Nó được Huấn Quyền trình bày, và nội dung của nó được phát triển dần dần cho đến giáo huấn của Công đồng Vatican II[67] và việc sử dụng thuật ngữ "chức làm mẹ thiêng liêng" trong Thông điệp Redemptoris Mater.[68] Chức làm mẹ thiêng liêng của Ðức Maria bắt nguồn từ chức làm mẹ thể lý của Mẹ đối với Con Thiên Chúa. Bằng việc mang thai Chúa Kitô về mặt thể lý - qua việc Mẹ tự do và tin tưởng chấp nhận sứ mệnh đó - Ðức Maria, trong đức tin, cũng đã sinh ra tất cả các Kitô hữu, những chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nói cách khác, Mẹ đã sinh ra Chúa Kitô toàn thể: Ðầu và các chi thể.[69]

36. Sự tham gia của Ðức Trinh Nữ Maria, với tư cách là Mẹ, vào cuộc đời của Con Mẹ - từ Nhập Thể đến Thập Giá và Phục Sinh - mang lại một tính chất độc đáo và riêng biệt cho sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Người, đặc biệt đối với Giáo Hội, "khi [Giáo Hội] chiêm ngưỡng tình mẫu tử thiêng liêng của Ðức Maria đối với tất cả các thành viên của Nhiệm Thể; trong lời cầu khẩn tin tưởng của mình [với Mẹ]; khi Giáo Hội trải nghiệm sự chuyển cầu của Ðấng bênh vực và trợ giúp của mình."[70] Khía cạnh mẫu thân này đặc trưng cho mối tương quan của Ðức Trinh Nữ với Chúa Kitô và sự cộng tác của Mẹ trong mọi khoảnh khắc của công trình cứu độ. Trong sứ mệnh làm Mẹ, Ðức Maria có một mối tương quan đặc biệt với Ðấng Cứu Chuộc và với những người đã được cứu chuộc, trong đó Mẹ là người đầu tiên: "Ðức Maria là điển hình [typos, kiểu mẫu] của Giáo Hội và của sự tái sinh diễn ra trong Giáo Hội"; thực vậy, Mẹ là biểu tượng và "hình ảnh thu nhỏ của chính Giáo Hội".[71] Chức làm mẹ này được sinh ra từ sự hiến thân trọn vẹn của Mẹ và ơn gọi trở thành người phục vụ mầu nhiệm.[72] Trong chức làm mẹ của Ðức Maria, tất cả những gì chúng ta có thể nói về chức làm mẹ theo ân sủng và về vị trí hiện tại của Mẹ trong toàn thể Giáo Hội đều được tổng hợp.

37. Chức làm mẹ thiêng liêng của Ðức Maria có một số đặc điểm có tính định tín:

(a) Nó được đặt nền tảng trên sự thật rằng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và chức làm mẹ của Mẹ được mở rộng đến các môn đệ của Chúa Kitô[73] và thậm chí đến toàn thể nhân loại.[74] Về phương diện này, sự hợp tác của Ðức Maria là duy nhất và khác biệt với sự hợp tác của tất cả "các thụ tạo khác". [75] Sự chuyển cầu của Mẹ không mang đặc điểm của sự trung gian tư tế (như của Chúa Kitô), nhưng thay vào đó được đặt trong trật tự và sự tương đồng với thiên chức làm mẹ. [76] Bằng cách liên kết sự chuyển cầu của Ðức Maria với công trình của Chúa Kitô, những ân huệ Chúa ban cho chúng ta được trình bày với khía cạnh làm mẹ, thấm đẫm sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ[77] được Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:27).

b) Sự hợp tác làm mẹ của Ðức Maria ở trong Chúa Kitô, và do đó, mang tính tham gia. Nói cách khác, nó bao gồm "sự chia sẻ nguồn mạch duy nhất, đó là sự trung gian của chính Chúa Kitô". [78] Ðức Maria bước vào sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô một cách hoàn toàn bản vị. [79] Vai trò làm mẹ của Mẹ "không hề che khuất hay làm giảm đi sự trung gian độc nhất này của Chúa Kitô, mà đúng hơn, cho thấy sức mạnh của sự trung gian đó. Mọi ảnh hưởng cứu rỗi của Ðức Trinh Nữ Maria" đối với chúng ta đều xuất phát từ "sự phong phú dồi dào của công đức Chúa Kitô, nương tựa vào sự trung gian của Người, hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian đó và rút ra mọi sức mạnh từ đó."[80] Trong thiên chức làm mẹ của ngài, Ðức Maria không phải là một chướng ngại vật được đặt giữa con người và Chúa Kitô. Ngược lại, vai trò làm mẹ của Mẹ được kết hợp bất khả phân ly với vai trò của Chúa Kitô và hướng về Người. Hiểu theo cách này, thiên chức làm mẹ của Ðức Maria không tìm cách làm suy yếu lòng tôn thờ độc nhất chỉ dành cho Chúa Kitô mà thôi, nhưng đúng hơn, tìm cách khơi dậy lòng tôn thờ đó.[81] Vì vậy, người ta phải tránh những danh hiệu và cách diễn đạt trình bày Ðức Maria như một loại "cột thu lôi" trước công lý của Chúa, như thể Mẹ là một sự thay thế cần thiết trước sự thiếu hụt của lòng thương xót của Thiên Chúa. Công đồng Vatican II đã tái khẳng định lòng sùng kính dành cho Ðức Maria phải như thế nào, cụ thể là "một lòng sùng kính hướng đến trung tâm Kitô học của đức tin Kitô giáo, theo cách mà 'khi Mẹ được tôn vinh, thì Chúa Con... được nhận biết, yêu mến và tôn vinh một cách xứng đáng.'"[82] Cuối cùng, chức làm mẹ của Ðức Maria phụ thuộc[83] - vào việc Chúa Cha tuyển chọn, vào công trình của Chúa Kitô, và vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.

c) Giáo Hội không chỉ là điểm quy chiếu cho chức làm mẹ thiêng liêng của Ðức Maria, mà chính trong chiều kích bí tích của Giáo Hội, chức làm mẹ của Mẹ luôn được triển khai.[84] Ðức Maria hành động với Giáo Hội, trong Giáo Hội và cho Giáo Hội. Việc thực thi chức làm mẹ của Mẹ được tìm thấy trong sự hiệp thông của Giáo Hội chứ không phải bên ngoài Giáo Hội, dẫn dắt và đồng hành với Giáo Hội. Giáo Hội học biết chức làm mẹ của chính mình từ Ðức Maria[85] - trong việc đón nhận Lời Chúa, Ðấng truyền giáo, hoán cải và loan báo Chúa Kitô; trong hồng ân của đời sống bí tích Rửa Tội và Thánh Thể; và trong việc giáo dục và đào tạo của người mẹ giúp con cái Thiên Chúa được sinh ra và lớn lên.[86] Vì lý do này, có thể nói rằng "tính sinh hoa trái của Giáo hội cũng giống như tính sinh hoa trái của Ðức Maria; nó được thể hiện trong cuộc sống của các thành viên của Giáo hội đến mức họ sống lại, 'thu nhỏ', những gì Mẹ đã sống, nghĩa là họ yêu thương theo tình yêu của Chúa Giêsu."[87] Là Mẹ, Ðức Maria chờ đợi Chúa Kitô được sinh ra trong chúng ta[88] và không thay thế Người; điều tương tự cũng đúng với Giáo hội. Do đó, "nhờ những ân sủng dồi dào tuôn chảy từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, theo những cách khác nhau, Giáo hội, Ðức Trinh Nữ Maria và tất cả các tín hữu trở thành những dòng nước hằng sống. Bằng cách này, Chúa Kitô biểu lộ vinh quang của Người trong và qua sự nhỏ bé của chúng ta."[89]

Lời cầu bầu

38. Ðức Maria được kết hợp với Chúa Kitô một cách độc đáo bởi thiên chức làm mẹ và bởi sự đầy ân sủng của Mẹ. Ðiều này được ám chỉ trong lời chào của thiên thần (x. Lc 1,28), trong đó sử dụng một từ (kecharitomene) chỉ được tìm thấy ở đây và không nơi nào khác trong Kinh Thánh. Mẹ, Ðấng đã nhận được trong lòng mình sức mạnh của Chúa Thánh Thần và trở thành Mẹ Thiên Chúa, bởi cùng một Thần Khí đó, trở thành Mẹ của Giáo Hội.[90] Nhờ sự kết hợp đặc biệt này trong thiên chức làm mẹ và trong ân sủng, lời cầu nguyện của Mẹ cho chúng ta có một giá trị và hiệu quả không thể so sánh với bất cứ lời chuyển cầu nào khác. Thánh Gioan Phaolô II đã kết nối danh hiệu "Ðấng Trung Gian" với vai trò chuyển cầu của người mẹ này, lưu ý rằng Ðức Maria "đặt mình 'ở giữa', nghĩa là, Mẹ hành động như một người trung gian không phải như một người ngoài cuộc, mà trong tư cách là một người mẹ. Mẹ biết rằng, trong tư cách như thế, Mẹ có thể chỉ cho Con Mẹ thấy những nhu cầu của nhân loại."[91]

39. Ðức tin Công Giáo đọc thấy trong Kinh Thánh rằng những ai đang ở với Thiên Chúa trên thiên đàng có thể tiếp tục thực hiện các hành động yêu thương bằng cách cầu bầu cho chúng ta và đồng hành với chúng ta. Ví dụ, chúng ta thấy rằng các thiên thần là "những thần khí phục vụ được sai đi để phục vụ, vì lợi ích của những người sẽ được cứu rỗi" (Dt 1:14). Kinh Thánh nói về các sứ mệnh được thực hiện bởi các thiên thần (x. Tb 5:4; 12:12; Cv 12:7-11; Kh 8:3-5). Các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu trong sa mạc trong những cơn cám dỗ của Người (x. Mt 4:11) và trong Cuộc Khổ Nạn của Người (x. Lc 22:43). Các Thánh Vịnh hứa với chúng ta rằng "Vì ngươi, Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên khắp các nẻo đường" (Tv 91:11).

40. Những đoạn văn này cho chúng ta biết rằng thiên đàng không hoàn toàn tách biệt với trái đất, điều này mở ra khả thể những người trên thiên đàng có thể cầu bầu cho chúng ta. Sách Da-ca-ri-a trình bày một thiên thần của Thiên Chúa phán rằng: "Lạy Chúa các đạo binh, đến bao giờ Ngài còn không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa, là những nơi Ngài đã nổi giận trong bảy mươi năm qua?" (Dcr 1:12). Tương tự, sách Khải Huyền nói về những "người bị giết", tức là các vị tử đạo trên trời, những người can thiệp bằng cách cầu xin Thiên Chúa hành động trên mặt đất để giải thoát chúng ta khỏi bất công: "Tôi thấy dưới bàn thờ linh hồn của những người đã bị giết vì lời Thiên Chúa và vì lời chứng mà họ đã rao giảng. Họ lớn tiếng kêu lên: "Lạy Chúa là Ðấng chí thánh và chân thật, đến bao giờ Chúa mới xét xử và không đòi báo thù cho máu chúng con trên những người sống trên mặt đất?" (Kh 6:9-10). Ngay trong truyền thống Do Thái giáo Hy Lạp, đã có niềm tin cho rằng những người công chính đã chết sẽ cầu bầu cho dân (x. 2 Mcb 15:12-14).

41. Ðức Maria, trên trời, yêu thương "những người còn lại trong dòng dõi mình" (Kh 12:17), và vì thế, như xưa Mẹ đã đồng hành với lời cầu nguyện của các Tông đồ khi họ nhận được Chúa Thánh Thần (x. Cv 1:14), thì nay, từ trời, Mẹ cũng đồng hành với lời cầu nguyện của chúng ta bằng lời chuyển cầu của Mẹ. Bằng cách này, Mẹ tiếp tục thái độ phục vụ và lòng cảm thương được Mẹ biểu lộ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-11), khi Mẹ vẫn hướng về Chúa Giêsu mà thưa: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2:3). Trong bài ca ngợi khen của Mẹ, chúng ta thấy Ðức Maria là một người phụ nữ của dân ngài, người Mẹ ngợi khen Thiên Chúa vì "Người đã nâng cao những kẻ khiêm nhường, ban của đầy dư" (Lc 1,52-53), và vì "Người đã cứu giúp Israel, tôi tớ Người, vì Người nhớ lại lời hứa thương xót, lời Người đã hứa với tổ tiên chúng ta" (Lc 1,54-55); và chúng ta nhận ra sự nhanh chóng của Mẹ khi Mẹ lên đường không chút chậm trễ để giúp đỡ người chị họ Êlisabét (x. Lc 1,39-40). Vì những lý do này, Dân Thiên Chúa tin tưởng vững chắc vào lời chuyển cầu của Mẹ.

42. Trong số những người được chọn và được vinh quang với Chúa Kitô, người trước hết và trên hết là Mẹ của Người. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng Ðức Maria có một sự cộng tác độc đáo vào công trình cứu độ mà Chúa Kitô thực hiện trong Hội Thánh của Người. Nhờ lời chuyển cầu này, Ðức Maria có thể trở thành dấu chỉ từ mẫu của lòng thương xót Chúa cho chúng ta. Bằng cách này, vì Người đã tự ý muốn điều đó, Chúa ban cho hành động của Người nơi chúng ta một khuôn mặt từ mẫu.[92]

Sự gần gũi từ mẫu

43. Nhiều lời cầu khẩn, hình ảnh và đền thánh dâng kính Ðức Mẹ cho thấy tình mẫu tử đích thực của Ðức Maria, vốn xích lại gần cuộc sống của con cái ngài. Một ví dụ điển hình là việc Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego trên đồi Tepeyac và nói với ngài bằng những lời dịu dàng của một người mẹ: "Juan, con trai út và yêu dấu của mẹ." Khi Thánh Juan Diego bày tỏ những khó khăn trong việc thực hiện sứ mệnh được giao phó, Ðức Maria đã cho ngài thấy sức mạnh của tình mẫu tử: "Mẹ chẳng ở đây sao, Mẹ là mẹ của con?... Con chẳng ở trong lòng áo choàng của Mẹ, trong vòng tay Mẹ sao?"[93]

44. Kinh nghiệm về tình mẫu tử của Ðức Maria, mà Thánh Juan Diego đã trải qua, là kinh nghiệm bản thân của tất cả các Kitô hữu đón nhận tình mẫu tử của Ðức Maria và đặt "những nhu cầu hằng ngày" của mình vào tay Mẹ, tin tưởng mở lòng họ ra "để cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ và nhận được sự che chở an ủi của Mẹ."[94] Bên cạnh những biểu hiện phi thường về sự gần gũi của Mẹ, còn có những biểu hiện thường xuyên và hằng ngày về tình mẫu tử của Mẹ trong cuộc sống của tất cả con cái Mẹ. Ngay cả khi chúng ta không cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ, Mẹ vẫn tỏ mình gần gũi với chúng ta như một người Mẹ để giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa Cha, chiêm ngắm hồng ân cứu độ của Chúa Kitô, và đón nhận hành động thánh hóa của Chúa Thánh Thần. Giá trị của sự gần gũi của tình mẫu tử này với Giáo hội lớn lao đến nỗi các mục tử không được để nó bị lạm dụng cho các mục đích chính trị. Trong nhiều dịp khác nhau, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo về điều này và bày tỏ sự quan ngại về "nhiều đề xuất mang tính ý thức hệ và văn hóa khác nhau tìm cách chiếm đoạt cho riêng mình cuộc gặp gỡ của một dân tộc với Mẹ của họ."[95]

Mẹ Ân Sủng

45. Cách hiểu về tước hiệu "Mẹ của các tín hữu" này cho phép chúng ta nói về vai trò của Ðức Maria trong mối liên hệ với đời sống ân sủng của chúng ta. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số cách diễn đạt có thể được chấp nhận về mặt thần học có thể dễ dàng trở nên nặng nề với những khái niệm và biểu tượng truyền tải những quan niệm khó chấp nhận hơn. Ví dụ, Ðức Maria đôi khi được miêu tả như thể ngài sở hữu một kho tàng ân sủng tách biệt với Thiên Chúa. Trong những trường hợp như vậy một quan niệm, không rõ ràng lắm rằng chính Chúa - với sự toàn năng quảng đại và tự do của Người - đã muốn liên kết Mẹ với việc chia sẻ sự sống thần linh phát xuất từ trung tâm duy nhất là Trái Tim Chúa Kitô, chứ không phải từ Trái Tim Ðức Maria.[96] Mẹ cũng thường được miêu tả hoặc tưởng tượng như một nguồn mạch tuôn chảy mọi ân sủng. Nếu xét đến sự kiện sự ngự trị nội tại của Ba Ngôi (ân sủng bất tạo) và sự tham dự của chúng ta vào sự sống thần linh (ân sủng tạo dựng) là không thể tách rời, chúng ta không thể nghĩ rằng mầu nhiệm này phụ thuộc vào một cuộc "quá giang [passage]" qua bàn tay của Ðức Maria. Những quan niệm như vậy nâng Ðức Maria lên cao đến mức vị trí trung tâm của chính Chúa Kitô có thể biến mất, hoặc ít nhất, trở nên có điều kiện. Ðức Hồng Y Ratzinger đã khẳng định rằng tước hiệu "Ðức Maria, Ðấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng" không được đặt nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.[97] Phù hợp với niềm tin này, chúng ta có thể nhận ra những khó khăn mà tước hiệu này đặt ra, cả về mặt suy tư thần học lẫn linh đạo.

46. Ðể tránh những khó khăn này, chức làm mẹ của Ðức Maria trong trật tự ân sủng phải được hiểu như một sự trợ giúp chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Ðiều này có thể thấy qua việc, một mặt, lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ[98] là biểu hiện của "sự trợ giúp từ mẫu"[99] cho phép chúng ta nhận ra Chúa Kitô là Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại. Mặt khác, sự hiện diện từ mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta không ngăn cản những hành động khác nhau của Ðức Maria nhằm khuyến khích chúng ta mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Bằng cách này, Mẹ giúp chúng ta - bằng nhiều cách khác nhau - chuẩn bị bản thân để đón nhận sự sống ân sủng mà chỉ có Chúa mới có thể tuôn đổ vào trong chúng ta.

47. Sự cứu rỗi của chúng ta chỉ là công trình của ân sủng cứu độ của Chúa Kitô chứ không phải của bất cứ ai khác. Thánh Augustinô khẳng định rằng "vương quốc sự chết này chỉ bị tiêu diệt nơi bất cứ con người nào nhờ ân sủng của Ðấng Cứu Thế,"[100] và ngài đã giải thích rõ ràng điểm này dưới ánh sáng của sự cứu chuộc người bất chính: "Ai lại muốn chết cho một người bất chính, cho một người vô đạo, ngoài Chúa Kitô, Ðấng công chính đến mức có thể biện minh cho cả những người bất chính? Vì vậy, thưa anh em, chúng ta không có công trạng nào, mà chỉ có tội. Mặc dù công trạng của con người thuộc loại như vậy, nhưng lòng thương xót của Người không bỏ rơi họ và... thay vì hình phạt phải chịu, Người đã ban cho họ ân sủng mà họ không đáng được hưởng... [Người đã làm điều này] để cứu chuộc chúng ta, không phải bằng vàng hay bạc, mà bằng giá máu của Người đổ ra."[101] Vì vậy, khi Thánh Tôma Aquinô hỏi liệu có ai có thể tạo công đức cho người khác không, ngài trả lời rằng "không ai có thể tạo công đức cho người khác ân sủng đầu tiên của họ, ngoài Chúa Kitô."[102] Không một con người nào khác có thể tạo công đức theo nghĩa chặt chẽ (de condigno), và về điểm này, không còn nghi ngờ gì nữa: "không ai có thể công chính nếu không được ban cho công nghiệp của Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."[103] Tương tự như vậy, sự viên mãn ân sủng của Ðức Maria hiện hữu bởi vì Mẹ đã lãnh nhận ân sủng cách nhưng không, trước bất cứ hành động nào của riêng Mẹ, "nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ nhân loại."[104] Chỉ có công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã hiến mình cho đến cùng, mới được áp dụng cho chúng ta để chúng ta được nên công chính - vì công chính này "kết thúc trong sự thiện hảo vĩnh cửu của sự tham gia của Thiên Chúa, nên là một công trình vĩ đại hơn cả việc tạo dựng trời đất."[105]

48. Tuy nhiên, chúng ta có thể tham gia bằng cách mong muốn điều tốt lành cho người khác, và thật phù hợp (congruo) khi Thiên Chúa làm nên trọn ước muốn bác ái này, một ước muốn có thể được diễn tả "trong lời cầu nguyện" hoặc "bằng các công việc thương xót."[106] Ðúng là chỉ có Thiên Chúa mới có thể tuôn đổ ân sủng, vì khả năng này "vượt tầm cỡ bản chất của chúng ta"[107] và có một khoảng cách vô hạn[108] giữa bản chất của chúng ta và sự sống thần linh của Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể ban tặng ân sủng này, đáp ứng ước muốn của Mẹ, người nhờ đó hân hoan kết hợp với công trình của Thiên Chúa như một người tôi tớ khiêm nhường.

49. Cũng như ở Cana, Ðức Maria không nói với Chúa Kitô những gì Người nên làm. Thay vào đó, Mẹ cầu bầu bằng cách trình bày với Người những thiếu sót, nhu cầu và đau khổ của chúng ta để Người có thể hành động với quyền năng thần linh của Người:[109] "Họ hết rượu rồi" (Ga 2:3). Ngay cả ngày nay, Mẹ vẫn giúp chúng ta chuẩn bị cho hành động của Thiên Chúa:[110] "Người bảo gì, các anh cứ làm theo" (Ga 2:5). Lời Mẹ không chỉ là một gợi ý đơn thuần mà trở thành một phương pháp sư phạm mẫu tử đích thực, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Chúa Kitô.[111] Ðức Maria lắng nghe, quyết định và hành động[112] để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng của Người,[113] bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.

Nơi Chỉ Thiên Chúa Mới Có Thể Với tới

50. Như Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta, ơn thánh hóa "trước hết và trên hết là ân huệ của Chúa Thánh Thần, Ðấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta."[114] Nó không chỉ đơn thuần là một sự trợ giúp hay một năng lực mà chúng ta sở hữu, nhưng là "ân huệ nhưng không được Thiên Chúa ban cho chúng ta bằng chính sự sống của Người, được Chúa Thánh Thần đổ tràn vào linh hồn chúng ta,"[115] một điều có thể được mô tả như sự ngự trị của Ba Ngôi trong bản thể sâu thẳm nhất của chúng ta, như tình bạn với Thiên Chúa, và như giao ước với Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều này bởi vì nó bao gồm việc vượt qua một sự mất cân xứng "vô hạn".[116] Sự tự hiến của Ba Ngôi - qua đó chính Thiên Chúa đã "đi vào"[117] (illabitur) linh hồn - hàm ý một sự biến đổi cố hữu trong phần sâu thẳm nhất của người tín hữu.[118] Ðể mô tả hành động "đi vào" phần sâu thẳm nhất của chúng ta, Thánh Tôma Aquinô sử dụng động từ illabi, chỉ có thể áp dụng cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người, không phải là một thụ tạo, mới có thể chạm đến phần sâu thẳm nhất của chúng ta mà không xâm phạm đến tự do và bản sắc của chúng ta.[119] Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới vươn tới trung tâm sâu thẳm nhất của chúng ta để mang lại sự nâng cao và biến đổi khi Người hiến mình làm Bạn, và do đó, "không thụ tạo nào có thể ban ân sủng."[120] Thánh Tôma nhắc lại điểm này khi nói về ân sủng bí tích: là nguyên nhân chính, "chỉ có Thiên Chúa tạo ra hiệu quả bên trong của bí tích: thứ nhất, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể đi vào linh hồn nơi hiệu quả bí tích diễn ra (và không có tác nhân nào có thể hoạt động ngay lập tức ở nơi họ không hiện diện): thứ hai, bởi vì ân sủng, là hiệu quả bên trong của bí tích, phát xuất từ một mình Thiên Chúa."[121]

51. Các tác giả khác cũng đã diễn đạt theo cách tương tự.[122] Trong bối cảnh này, cần phải nhấn mạnh đến Thánh Bonaventura, người đã dạy rằng khi Thiên Chúa hoạt động với ân sủng thánh hóa nơi một con người, Người làm cho người đó hoàn toàn gần gũi với Người.[123] Nhờ ân sủng, Thiên Chúa trở nên hoàn toàn gần gũi với con người, với một sự gần gũi tuyệt đối, một sự "đi vào" tận sâu thẳm nhất của con người mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể vươn tới được.[124] Vậy, ân sủng tạo dựng không hoạt động như một "trung gian" mà là hiệu quả trực tiếp của tình bạn được Thiên Chúa ban tặng, trực tiếp chạm đến trái tim con người. Và vì vậy, vì chính Thiên Chúa là Ðấng mang lại sự biến đổi cho con người khi Người hiến mình làm Bạn, nên không có trung gian nào giữa Thiên Chúa và con người được biến đổi.[125] Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng đi vào sâu thẳm như vậy, để thánh hóa chúng ta đến mức trở nên tuyệt đối trực tiếp với chúng ta, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm như vậy mà không làm con người ra hư vô.[126]

52. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa vĩnh cửu và tự nhiên[127] đã mặc lấy bản tính con người, chiếm một vị trí độc nhất trong công trình cứu độ. Ðược kết hợp ngôi vị với Chúa Con nhờ ân sủng "chắc chắn vô hạn,"[128] nhân tính này đã nhận được ân sủng "theo cách cao cả nhất; và do đó, từ sự trổi vượt của ân sủng mà Người đã nhận được, chính từ Người mà ân sủng này được ban cho những người khác, và điều này thuộc về bản tính của Ðầu."[129] Nhân tính của Người tham gia vào việc tuôn đổ ân sủng thánh hóa, ân sủng này chẩy tràn hoặc "tràn đầy"[130] từ đó. Do đó, "theo một nghĩa nào đó, Người là nguồn mạch của mọi ân sủng theo nhân tính của Người" với tư cách là Ðầu mà từ đó ân sủng tuôn chảy đến những người khác ("in alios transfunderetur"). [131] Bản tính con người này không thể tách rời khỏi ơn cứu độ của chúng ta, vì "với việc nhập thể, mọi hành động cứu độ của Ngôi Lời Thiên Chúa luôn được thực hiện trong sự hiệp nhất với bản tính nhân loại được Người đã đảm nhận để cứu độ mọi người."[132] Qua bản tính nhân loại đã đảm nhận này, Con Thiên Chúa "đã kết hợp một cách nào đó với mỗi người" và trong bản tính đó, Người "đã ban sự sống cho chúng ta nhờ máu Người đã đổ ra một cách tự do."[133] Nhờ ân sủng, các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô và tham dự vào Mầu nhiệm Vượt qua của Người, để họ có thể sống một sự kết hợp mật thiết và duy nhất với Người, điều mà Thánh Phaolô đã diễn tả bằng những lời này: "Không còn phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).

53. Không một con người nào - ngay cả các Tông đồ hay Ðức Trinh Nữ - có thể hành động như một người phân phát ân sủng phổ quát. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban ân sủng,[134] và Người làm như vậy thông qua nhân tính của Chúa Kitô[135] vì "con người Chúa Kitô sở hữu sự viên mãn tối cao của ân sủng, vì là Con Một của Chúa Cha."[136] Mặc dù Ðức Trinh Nữ Maria là "đầy ân sủng" và "Mẹ Thiên Chúa" một cách tuyệt vời, nhưng giống như chúng ta, Mẹ là con gái nuôi của Chúa Cha và, như Dante Alighieri đã viết, "con gái của Con ngài."[137] Mẹ cộng tác vào công trình cứu độ bằng một sự tham gia phát sinh và phụ thuộc. Do đó, bất cứ diễn đạt nào về "sự trung gian" của Mẹ trong ân sủng phải được hiểu là một sự tương tự xa vời với Chúa Kitô và sự trung gian độc nhất của Người.[138]

54. Trong sự gần gũi [immediacy] hoàn hảo giữa con người và Thiên Chúa trong việc thông truyền ân sủng, ngay cả Mẹ Maria cũng không thể can thiệp. Cả tình bạn với Chúa Giêsu Kitô lẫn sự ngự trị của Ba Ngôi đều không thể được quan niệm như một điều gì đó đến với chúng ta thông qua Mẹ Maria hay các thánh. Trong mọi trường hợp, điều chúng ta có thể nói là Mẹ Maria mong muốn điều tốt lành này cho chúng ta và Mẹ cầu xin điều đó, cùng với chúng ta. Phụng vụ, cũng là lex credendi (luật đức tin), cho phép chúng ta tái khẳng định sự hợp tác này của Ðức Maria, không phải trong việc thông truyền ân sủng mà trong sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ. Thực vậy, khi giải thích ý nghĩa của đặc ân được ban cho Ðức Maria được hướng đến lợi ích của dân Chúa, phụng vụ trọng thể lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội khẳng định rằng Mẹ đã trở thành "Ðấng bầu cử ân sủng"[139] - nghĩa là Mẹ chuyển cầu bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho chúng ta được lãnh nhận ân sủng.

55. Như Công đồng Vatican II dạy, "ảnh hưởng cứu độ của Ðức Trinh Nữ Maria... không hề cản trở sự kết hợp trực tiếp của các tín hữu với Chúa Kitô, nhưng, đúng hơn, nuôi dưỡng nó."[140] Vì lý do này, chúng ta nên tránh bất cứ mô tả nào gợi ý về sự tuôn đổ ân sủng theo từng giai đoạn giống như trường phái Tân Platông, như thể ân sủng của Thiên Chúa đang tuôn đổ qua nhiều trung gian khác nhau (như Ðức Maria) trong khi nguồn gốc tối hậu của nó (Thiên Chúa) vẫn tách biệt khỏi trái tim chúng ta. Những cách giải thích như vậy gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự hiểu biết đúng đắn về cuộc gặp gỡ mật thiết, trực tiếp và tức thời mà ân sủng tạo ra giữa Chúa và trái tim người tín hữu.[141] Thực tế là chỉ có Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, mới công chính hóa.[142] Chỉ có Thiên Chúa mới nâng chúng ta lên để vượt qua sự mất cân xứng vô hạn ngăn cách chúng ta với sự sống thần linh; chỉ có Người hành động trong chúng ta với sự ngự trị Ba Ngôi của Người; chỉ có Người mới bước vào trong chúng ta và biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành những người thông phần vào sự sống thần linh của Người. Sẽ không tôn trọng Ðức Maria kh Việc gán cho ngài bất cứ sự trung gian nào trong việc hoàn thành công trình này, vốn chỉ thuộc về Thiên Chúa.

Nước Hằng Sống Chảy tràn

61. Ðồng thời, vì Ðức Maria đầy ân sủng và vì điều thiện luôn tìm cách truyền đạt chính nó cho người khác, nên ý niệm về một loại "dòng chảy" ân sủng từ Ðức Maria dễ dàng xuất hiện - một ý niệm chỉ có thể mang ý nghĩa phù hợp nếu nó không mâu thuẫn với những gì đã được nói đến ở trên. Cách diễn giải như vậy không gây khó khăn gì nếu chúng ta đặc biệt đề cập đến các hình thức hợp tác đã được thảo luận (sự chuyển cầu của Ðức Maria và sự gần gũi mẫu tử của Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa), và được Công đồng Vatican II trình bày như một sự hợp tác đa dạng của tạo vật "cùng chia sẻ một nguồn mạch duy nhất này". [143]

61. Vai trò chuẩn bị cơ bản mà các tín hữu, đặc biệt là Ðức Maria, đảm nhận khi họ hợp tác với Thiên Chúa trong việc Người thông ban ân sủng, được diễn tả trong cách diễn giải truyền thống về "những dòng nước hằng sống" tuôn chảy từ trái tim các tín hữu (x. Ga 7:37-39). Mặc dù hình ảnh mạnh mẽ này có thể được hiểu như thể các tín hữu là những kênh dẫn truyền ân sủng thánh hóa một cách hoàn hảo, nhưng các Giáo phụ đã nói về sự tuôn đổ này của những dòng sông Thần Khí trong bối cảnh các hành động chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa, chẳng hạn như rao giảng, việc giảng dạy và những cách thức khác để truyền đạt ân huệ của Lời được mặc khải.

58. Origen áp dụng hình ảnh "những dòng nước hằng sống" vào việc nghiên cứu Kinh Thánh hoặc tri nhận các ý nghĩa thiêng liêng của nó.[144] Ðối với Thánh Cyril thành Alexandria, dòng nước tràn ngập này biểu thị việc giảng dạy các mầu nhiệm đức tin[145] - "khai tâm mầu nhiệm tinh ròng" theo nghĩa sâu xa nhất của nó, không chỉ đơn thuần là trí thức mà còn liên quan đến toàn bộ thiên hướng hoặc sự chuẩn bị của con người đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.[146] Thánh Cyril thành Giêrusalem cho rằng hình ảnh này biểu thị việc giảng dạy Kinh Thánh khi sự việc được đưa ra ánh sáng.[147] Thánh Gioan Kim Khẩu liên kết nó với sự khôn ngoan của Stêphanô hoặc thẩm quyền của lời Thánh Phêrô.[148] Thánh Ambrôsiô khẳng định: "Ðây là những dòng sông lắng nghe lời Thiên Chúa bằng tai của chúng, và chúng nói, để chúng có thể đổ lời vào lòng mỗi người;"[149] và ngài áp dụng điều đó như sau: "xin cho nước của giáo lý thiên thượng tuôn trào... xin cho những giọt sương của "Lời Chúa được rảy"[150] vào lòng mỗi người.[151] Ðối với Thánh Giêrônimô cũng vậy, nước là lời dạy của Ðấng Cứu Thế,[152] cũng như đối với Thánh Grêgôriô Cả, người còn dạy rằng nước biểu thị "ý chí đạo đức hướng đến người lân cận".[153] Những giải thích này về "những dòng nước hằng sống", mà các tín hữu tuôn đổ, tập trung vào kiến thức Kinh Thánh và các mầu nhiệm của nó. Chúng thường không chỉ đề cập đến kiến thức trí thức mà còn đến kiến thức "khôn ngoan" và sự soi sáng của tâm hồn, để tâm hồn có thể mở ra với chính thực tại của các Mầu nhiệm.

59. Trong số các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, chúng ta cũng tìm thấy một giải thích rộng hơn, bao gồm - ngoài việc giảng thuyết và dạy giáo lý - các công việc giúp đỡ người khác trong những nhu cầu của họ hoặc đóng vai trò như một chứng tá của tình yêu. Theo cách này, Thánh Hilariô thành Poitiers hiểu những dòng nước hằng sống biểu thị các công việc của Chúa Thánh Thần thông qua các nhân đức hoạt động vì lợi ích của người lân cận.[154] Thánh Augustinô áp dụng hình ảnh này cho "thiện chí mà [một người] muốn chăm sóc lợi ích của người lân cận". [155] Vào thời Trung Cổ, quan điểm này tiếp tục cho đến Thánh Tôma Aquinô, người mà "những dòng nước hằng sống" được biểu lộ khi một người "nhanh chóng hành động để giúp đỡ người khác và chia sẻ với họ những ân huệ khác nhau mà họ đã nhận được từ Thiên Chúa", vì một người như vậy "sẽ có dòng nước hằng sống chảy từ trái tim mình". [156]

60. Khi Thánh Tôma nói về "những ân huệ khác nhau" để phục vụ người lân cận, ngài đang ám chỉ đến các ân huệ đặc sủng khác nhau bởi vì, ngài lưu ý, "như đã nói (1 Cr 12:10), 'người này được ban ơn nói tiếng lạ, người kia được ban ơn chữa lành, v.v.'" [157] Khía cạnh này cũng hiện diện trong tư tưởng của Thánh Cyril thành Giêrusalem, người chỉ ra rằng những dòng nước của Chúa Thánh Thần - được truyền qua các tín hữu - được thể hiện khi "Thánh Linh khiến một người trở thành thầy dạy chân lý thần linh, soi dẫn người khác nói tiên tri, ban cho người khác quyền lực trừ quỷ... chỉ cho người khác cách giúp đỡ người nghèo, dạy người khác ăn chay và sống đời khổ hạnh."[158]

61. Cũng có thể nói tương tự về cách giải thích câu Ga 14:12, khi nói đến việc các tín hữu thực hiện "những việc lớn hơn" (meizona) so với những việc Chúa Kitô đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Các tín hữu tham gia vào công việc của Chúa Kitô bao lâu, họ còn khơi dậy đức tin của người khác thông qua việc rao giảng Lời Chúa, như Ga 17:20 đã nói rõ: "những ai sẽ tin vào Ta qua lời của họ." Ý tưởng tương tự cũng được ngụ ý trong Ga 14:6-11, nơi các việc làm của Chúa Kitô bày tỏ Chúa Cha (câu 8) và các việc làm của các tín hữu - tập trung vào việc rao giảng Tin mừng bằng lời nói của họ - được đặt bên cạnh các việc làm của Người. Thật vậy, Chúa Giêsu tuyên bố: "Nếu họ giữ lời Thầy, thì họ cũng sẽ giữ lời anh em" (Ga 15:20c), và cũng như bất cứ ai nghe Lời Chúa Kitô thì được sự sống đời đời (x. Ga 5:24), Chúa Giêsu cũng tuyên bố rằng những người khác sẽ tin qua lời của các tín hữu (x. Ga 17:20). Tuy nhiên, điều này không chỉ liên quan đến lời nói của họ mà còn cả chứng tá hùng hồn của họ. Chính vì vậy, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu của Người được hiệp nhất: để "thế gian tin" (Ga 17:21).

Tình Yêu Tự Hiến trong Thế Gian

62. Tin mừng Gioan liên kết chặt chẽ tình bác ái huynh đệ với việc chia sẻ điều tốt đẹp này. Thật vậy, lời khẳng định: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14:15) song hành với lời tuyên bố: "Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm những việc Thầy làm" (Ga 14:12). Khi Chúa Kitô nói về hoa trái mà Người mong đợi nơi các môn đệ, cuối cùng Người đồng nhất hóa hoa trái ấy với tình yêu thương huynh đệ (x. Ga 15:16-17). Tương tự như vậy, sau khi thảo luận về những việc phi thường khác nhau mà các tín hữu có thể thực hiện (x. 1 Cr 12), Thánh Phaolô đề xuất một con đường tuyệt vời hơn khi ngài nói: "Anh em hãy khao khát những ân huệ lớn lao hơn [ta meizona], và tôi sẽ chỉ cho anh em một con đường tuyệt vời hơn [kath'hyperbolen]": đó là tình yêu thương (1 Cr 12:31, x. 13:1). Những việc bác ái đối với tha nhân - ngay cả những công việc hằng ngày hay những nỗ lực thay đổi thế giới này - khi đó có thể trở thành một kênh dẫn để cộng tác với công trình cứu độ của Chúa Kitô.

63. Các vị giáo hoàng gần đây cũng đã bày tỏ những ý tưởng tương tự. Thánh Gioan XXIII đã dạy rằng "vì họ hiệp nhất trong tâm trí và tinh thần với Ðấng Cứu Chuộc thần linh ngay cả khi họ tham gia vào các công việc của thế giới, nên công việc của họ trở thành sự tiếp nối công việc của Người, thấm nhuần quyền năng cứu chuộc... để mở rộng cho người khác những hoa trái của ơn cứu chuộc."[159] Thánh Gioan Phaolô II hiểu sự hợp tác này như một sự tái thiết, cùng với Chúa Kitô, những điều tốt đẹp đã bị tổn hại trên thế giới vì tội lỗi, vì "Trái Tim Chúa Kitô muốn cần đến sự hợp tác của chúng ta để tái thiết lòng tốt và vẻ đẹp"; thực vậy, ngài nói tiếp, "đây chính là sự đền bù đích thực mà Trái Tim Ðấng Cứu Thế đã yêu cầu."[160] Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng "với tư cách là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành chủ thể của đức ái; họ được mời gọi biến mình thành khí cụ ân sủng để tuôn đổ đức ái của Thiên Chúa và dệt nên những mạng lưới đức ái. Ðộng lực của đức ái được đón nhận và trao ban này chính là điều làm nảy sinh giáo huấn xã hội của Giáo Hội."[161] Ðức Giáo Hoàng Phanxicô đã dạy rằng, đối với Thánh Têrêsa thành Lisieux, điều quan trọng không chỉ là để cho Trái Tim Chúa Kitô lấp đầy trái tim nngài, qua niềm tín thác trọn vẹn của ngài, bằng vẻ đẹp của tình yêu Người, mà còn là để cho tình yêu ấy, qua cuộc đời ngài, lan tỏa đến những người khác và do đó biến đổi thế giới" theo cách "được thể hiện trong những hành động yêu thương huynh đệ, qua đó chúng ta chữa lành những vết thương của Giáo Hội và của thế giới. Bằng cách này, chúng ta trao ban sức mạnh chữa lành của Trái Tim Chúa Kitô."[162]

64. Sự hợp tác này, được thực hiện nhờ Chúa Kitô và được khơi dậy bởi hoạt động của Chúa Thánh Thần, trong trường hợp của Ðức Maria, được phân biệt với sự hợp tác của bất cứ con người nào khác do đặc tính mẫu tử mà chính Chúa Kitô ở trên thập giá đã ban cho Mẹ.

Các Tiêu chuẩn

65. Bất cứ cách hiểu nào khác về sự hợp tác của Ðức Maria trong trật tự ân sủng -đặc biệt nếu người ta có ý định gán cho Mẹ một hình thức can thiệp hoàn hảo, công cụ hoàn hảo, hoặc nguyên nhân thứ cấp nào đó trong việc thông truyền ơn thánh hóa[163] - phải đặc biệt chú ý đến một số tiêu chuẩn đã được ngụ ý trong Hiến chế Tín lý Lumen Gentium:

a) Chúng ta phải suy gẫm cách Ðức Maria nuôi dưỡng "sự kết hợp trực tiếp"[164] của chúng ta với Chúa - mà chính Chúa tạo ra bằng cách ban ân sủng và chúng ta chỉ có thể nhận được từ Thiên Chúa[165]-và không nên nghĩ rằng sự kết hợp của chúng ta với Ðức Maria trực tiếp hơn sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô. Nguy cơ này hiện diện, trên hết, trong ý niệm cho rằng Chúa Kitô ban cho chúng ta Ðức Maria như một công cụ hoặc như một nguyên nhân thứ cấp và hoàn thiện hóa trong việc thông truyền ân sủng của Người.

b) Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng "ảnh hưởng cứu rỗi của Ðức Trinh Nữ Maria đối với con người không bắt nguồn từ bất cứ sự nhất thiết nội tại nào mà từ sự sắp đặt của Thiên Chúa."[166] Ảnh hưởng này chỉ có thể được suy nghĩ dưới ánh sáng của quyết định tự do của Thiên Chúa, Ðấng - mặc dù hành động của chính Người tràn đầy và dư dật - nhưng lại tự do và không đòi hỏi việc kết hợp Ðức Maria với công trình của Người. Do đó, không thể chấp nhận việc trình bày hành động của Ðức Maria như thể Thiên Chúa cần đến ngài để hoàn thành ơn cứu độ.

c) Chúng ta phải hiểu sự trung gian của Ðức Maria không phải là một sự hỗ trợ bổ sung giúp Thiên Chúa hoạt động trọn vẹn, phong phú hơn và đẹp đẽ hơn; thay vào đó, sự trung gian của Mẹ phải được hiểu theo cách "nó không lấy đi bất cứ điều gì cũng không thêm bất cứ điều gì vào phẩm giá và hiệu năng của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất."[167] Khi giải thích sự trung gian của Ðức Maria, cần nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta và chỉ có Thiên Chúa mới áp dụng công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, công nghiệp duy nhất cần thiết và hoàn toàn đủ cho việc công chính hóa chúng ta. Ðức Maria không thay thế Chúa trong bất cứ hành động nào mà Người chưa làm (tức là, Mẹ không lấy đi bất cứ điều gì của Người) cũng không bổ sung cho Người (tức là, Mẹ không thêm gì cho Người). Vì Mẹ không thêm bất cứ điều gì vào sự trung gian cứu độ của Chúa Kitô trong việc thông truyền ân sủng, nên Mẹ không nên được coi là tác nhân công cụ của sự ban tặng tự do đó.[168] Nếu Mẹ đồng hành với một hành động của Chúa Kitô - nhờ công trình của chính Người - thì Mẹ không bao giờ được coi là song hành với Người. Ðúng hơn, được liên kết với Chúa Kitô, Ðức Maria là người nhận được một hồng ân từ Con của Mẹ, hồng ân đặt Mẹ vượt lên trên chính mình, một hồng ân cho phép Mẹ đồng hành với công trình của Chúa với bản tính làm mẹ của mình. Vậy, chúng ta trở lại điểm an toàn nhất, đó là sự đóng góp của Ðức Maria trong việc chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa; trong bối cảnh đó, người ta thực sự có thể nghĩ về Mẹ như đang hành động để đóng góp một điều gì đó của riêng mình trong chừng mực Mẹ "có thể gây ra một số sắp xếp nào đó"[169] cho những người khác. Bởi vì "Việc đạt đến đích cuối cùng thuộc quyền năng tối cao, còn các quyền năng thấp hơn đóng góp vào việc đạt được đích đó, bằng cách chuẩn bị cho người ta nhận đươc nó." [170]

66. Tất cả những điều đã nói ở trên không hề xúc phạm hay hạ nhục Ðức Maria, bởi vì toàn thể con người của Mẹ hướng về Chúa: "Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa" (Lc 1:46). Ðối với Ðức Maria, không có vinh quang nào khác ngoài vinh quang của Thiên Chúa. Là Mẹ, Mẹ càng vui mừng hơn khi thấy Chúa Kitô biểu lộ vẻ đẹp vô tận, vô biên của vinh quang thần linh của Người bằng cách chữa lành, biến đổi và lấp đầy tâm hồn những người con mà Mẹ đã đồng hành trên con đường đến với Chúa. Vì vậy, bất cứ ánh mắt nào hướng về Mẹ mà làm chúng ta xao lãng Chúa Kitô hoặc đặt Mẹ ngang hàng với Con Thiên Chúa đều nằm ngoài động lực đặc trưng của một đức tin đích thực Thánh Mẫu.

Các Ân sủng

67. Một số tước hiệu, chẳng hạn như "Ðấng Trung Gian của Mọi Ân sủng", có những giới hạn không ủng hộ việc hiểu đúng đắn về vị trí độc nhất của Ðức Maria. Thật vậy, Ðức Maria, người đầu tiên được cứu chuộc, không thể là Ðấng Trung Gian của ân sủng mà chính Người đã lãnh nhận. Ðây không phải là một điểm nhỏ nhặt, bởi vì nó cho thấy một điều cốt lõi: ngay cả trong trường hợp của Ðức Maria, ân sủng đã đến trước ngài và đến từ sáng kiến hoàn toàn tự do của Ba Ngôi Thiên Chúa, xét theo công nghiệp của Chúa Kitô. Giống như tất cả chúng ta, Ðức Maria không xứng đáng được công chính hóa bởi một hành động trước đó của chính ngài,[171] và cũng không xứng đáng được công chính hóa bởi bất cứ hành động nào sau đó.[172] Ngay cả trong trường hợp của Ðức Maria, tình bạn của Người với Thiên Chúa nhờ ân sủng luôn được ban tặng một cách nhưng không. Hình ảnh đáng trân trọng của ngài là bằng chứng tối cao cho sự tiếp nhận đầy tin tưởng của một người, hơn bất cứ ai khác, đã mở lòng mình ra với sự ngoan ngoãn và hoàn toàn tin tưởng vào công trình của Chúa Kitô, và đồng thời, là dấu chỉ vĩ đại nhất của sức mạnh biến đổi của ân sủng đó.

68. Mặt khác, danh hiệu "Ðấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng" có nguy cơ mô tả Ðức Maria như người phân phát những điều tốt lành hoặc năng lượng thiêng liêng ngoài mối tương quan bản thân của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, thuật ngữ "ân sủng", khi được dùng để chỉ sự trợ giúp từ mẫu của Ðức Maria vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời chúng ta, có thể mang một ý nghĩa chấp nhận được. Dạng số nhiều diễn tả tất cả những sự trợ giúp - kể cả vật chất - mà Chúa có thể ban cho chúng ta khi Người lắng nghe lời chuyển cầu của Mẹ Người. Những sự trợ giúp này, đến lượt nó, chuẩn bị tâm hồn chúng ta mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Bằng cách này, Ðức Maria, với tư cách là Mẹ, có sự hiện diện trong đời sống thường nhật của các tín hữu lớn lao hơn nhiều so với sự gần gũi mà bất cứ vị thánh nào khác có thể có.

69. Qua lời chuyển cầu của ngài, Ðức Maria có thể cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta những thúc đẩy nội tâm của Chúa Thánh Thần, được gọi là "hiện sủng". Ðây là những sự trợ giúp do Chúa Thánh Thần ban, hoạt động ngay cả trong các tội nhân để chuẩn bị cho họ được nên công chính,[173] và khuyến khích những người đã được nên công chính nhờ ơn thánh hóa tiếp tục tăng trưởng. Chính theo nghĩa chuyên biệt này mà tước hiệu "Mẹ Ân Sủng" phải được hiểu. Mẹ khiêm nhường cộng tác để chúng ta mở lòng đón nhận Chúa, Ðấng duy nhất có thể công chính hóa chúng ta qua tác động của ơn thánh hóa: nghĩa là khi Thiên Chúa đổ tràn sự sống Ba Ngôi của Người vào chúng ta, ngự trong chúng ta như một Người Bạn, và cho chúng ta được thông phần vào sự sống thần linh của Người. Ðây là công trình độc quyền của Chúa. Ðồng thời, điều này không loại trừ khả thể các lời nói, hình ảnh hay những lời nhắc nhở khác nhau mà chúng ta nhận được qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria có thể giúp chúng ta kiên trì trong cuộc sống, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ân sủng được Chúa khấng ban, hoặc trưởng thành trong đời sống ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận cách nhưng không.

70. Những trợ giúp này đến từ Chúa được trao ban cho chúng ta với một khía cạnh từ mẫu, tràn đầy sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:25-28). Bằng cách này, Mẹ Maria thực hiện một hoạt động độc đáo để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng thánh hóa của Người, là ơn nâng đỡ và chữa lành chúng ta. Bất cứ khi nào Mẹ mang đến cho chúng ta những "động lực" khác nhau, thì những điều này luôn phải được hiểu là những lời nhắc nhở để mở lòng mình ra với Ðấng duy nhất đang hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.

Sự kết hợp của chúng ta với Mẹ Maria

71. Công đồng Vatican II thích gọi Mẹ Maria là "Mẹ trong trật tự ân sủng"[174], điều này diễn tả rõ nét tính phổ quát của sự hợp tác từ mẫu của Mẹ Maria. Danh xưng này không thể phủ nhận theo nghĩa chính xác, vì Mẹ là Mẹ Chúa Kitô: Ðấng là Ân Sủng tuyệt hảo và là Tác Giả của mọi ân sủng.

72. Chức làm mẹ của Ðức Maria trong trật tự ân sủng này - bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô - cũng hàm ý rằng mỗi môn đệ thiết lập với Ðức Maria "một mối tương quan độc nhất và không thể lặp lại". Thánh Gioan Phaolô II đã đề cập đến "chiều kích Ðức Maria trong đời sống của một môn đệ Chúa Kitô", được diễn tả như "một lời đáp trả tình yêu của một người, và đặc biệt, tình yêu của một người mẹ".[175] Thật vậy, đời sống ân sủng bao gồm mối tương quan của chúng ta với Mẹ Chúa Kitô, vì sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô nhờ ân sủng cũng bao hàm sự kết hợp với Ðức Maria trong một mối tương quan tin tưởng, dịu dàng và hết lòng yêu thương.

Người Môn Ðệ Ðầu Tiên

73. Mẹ là "người môn đệ đầu tiên, người học hỏi tốt nhất đường lối của Chúa Giêsu".[176] Ðức Maria là người đầu tiên trong số những người "nghe lời Thiên Chúa và giữ lấy" (Lc 11:28). Mẹ là người đầu tiên đặt mình giữa những người hèn mọn và nghèo khó của Chúa, để dạy chúng ta tin tưởng chờ đợi và đón nhận ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa. Như thế, Ðức Maria "là Mẹ đã trở thành 'môn đệ' đầu tiên của Con mình; là người đầu tiên mà Người dường như đã nói: 'Hãy theo Ta', ngay cả trước khi Người ngỏ lời kêu gọi này với các Tông đồ hay bất cứ ai khác (x. Ga 1,43)."[177] Mẹ là mẫu gương về đức tin và đức ái cho Giáo Hội qua việc vâng phục thánh ý Chúa Cha, cộng tác vào công trình cứu chuộc của Con mình và mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần.[178] Vì lý do này, Thánh Augustinô đã nói rằng "đối với Ðức Maria, việc trở thành môn đệ của Chúa Kitô có ý nghĩa hơn là việc trở thành Mẹ của Chúa Kitô."[179] Ðức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng "Mẹ là môn đệ hơn là Mẹ."[180] Cuối cùng, Ðức Maria là "người đầu tiên và hoàn hảo nhất trong các môn đệ của Chúa Kitô."[181]

74. Ðối với mỗi Kitô hữu, Ðức Maria là "người đầu tiên 'tin', và chính với đức tin của ngài trong tư cách Hiền Thê và Mẫu thân, Mẹ muốn hành động trên tất cả những ai phó thác cho Mẹ như con cái của Mẹ."[182] Mẹ làm điều đó với một tình yêu thương tràn đầy những dấu chỉ gần gũi, giúp họ trưởng thành trong đời sống thiêng liêng, dạy họ biết cách để ân sủng của Chúa Kitô hoạt động ngày càng nhiều hơn. Trong mối tương quan yêu thương và tin tưởng này, Mẹ, Ðấng "đầy ân sủng", dạy mỗi Kitô hữu đón nhận ân sủng, gìn giữ ân sủng đã nhận được và suy niệm về công trình Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc sống của họ (x. Lc 2:19).

75. Nếu những cách diễn đạt hoặc danh xưng như đã đề cập ở trên xuất hiện trong các trường hợp được cho là hiện tượng siêu nhiên đã nhận được phán quyết tích cực từ Giáo hội, thì cần lưu ý rằng "bất cứ khi nào Bộ ban hành Nihil obstat# những hiện tượng như vậy không trở thành đối tượng của đức tin, nghĩa là các tín hữu không bắt buộc phải chấp nhận đức tin đối với chúng."[183]

Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa

76. "Ðức Maria, người môn đệ đầu tiên, là Mẹ."[184] Trên Thập Giá, Chúa Kitô đã trao phó chúng ta cho Ðức Maria, và vì vậy "Người đã đưa chúng ta đến với Mẹ vì Người không muốn chúng ta hành trình mà không có mẹ."[185] Mẹ là Người Mẹ tin tưởng đã trở thành "Mẹ của tất cả các tín hữu";[186] đồng thời, Mẹ là "Mẹ của Giáo hội loan báo Tin Mừng,"[187] Ðấng đón nhận chúng ta như Thiên Chúa đã muốn kêu gọi chúng ta-nghĩa là, không chỉ là những cá nhân biệt lập mà là một dân tộc đang trên hành trình[188]: "Mẹ Maria của chúng ta luôn muốn bước đi ở bên cạnh chúng ta, luôn gần gũi chúng ta, giúp đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu và tình yêu của Mẹ."[189] Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa, "di chuyển giữa dân mình bằng sự chăm sóc dịu dàng và yêu thương; Mẹ đón nhận những lo lắng và phiền muộn của họ như của chính mình."[190]

Tình Yêu Dừng Lại, Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm, và Tận Hưởng Mầu Nhiệm trong Thinh Lặng

77. Dân Trung thành của Thiên Chúa không xa rời Chúa Kitô hay Tin Mừng khi họ đến gần Ðức Maria; đúng hơn, họ có thể nhìn thấy "trong hình ảnh người mẹ này tất cả các mầu nhiệm của Tin Mừng."[191] Trong khuôn mặt người mẹ, họ nhìn thấy sự phản chiếu Chúa, Ðấng tìm kiếm chúng ta (x. Lc 15:4-8), Ðấng đến gặp chúng ta với vòng tay rộng mở (x. Lc 15:20), Ðấng dừng lại trước mặt chúng ta (x. Lc 18:40), Ðấng cúi xuống và nâng chúng ta lên sát má Người (x. Hs 11:4), Ðấng nhìn chúng ta với tình yêu (x. Mc 10:21), một người không lên án chúng ta (x. Ga 8:11; Hs 11:9). Nơi khuôn mặt hiền mẫu của Mẹ, nhiều người nghèo nhận ra Chúa, Ðấng "đã hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc 1:52). Khuôn mặt của Mẹ ca ngợi mầu nhiệm Nhập Thể. Nơi khuôn mặt của Người Mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2:35), Dân Thiên Chúa nhận ra mầu nhiệm Thập Giá, và cũng nơi khuôn mặt ấy - được tắm trong ánh sáng phục sinh - họ nhận ra rằng Chúa Kitô đang sống. Và chính Mẹ, người đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách sung mãn, đã nâng đỡ các Tông đồ cầu nguyện trong Phòng Tiệc Ly (x. Cv 1:14). Do đó, chúng ta có thể nói rằng "đức tin của Ðức Maria, theo chứng tá tông đồ của Giáo hội, bằng cách nào đó vẫn tiếp tục trở thành đức tin của Dân Thiên Chúa đang lữ hành."[192]

78. Như các giám mục Mỹ Latinh đã khẳng định, người nghèo "tìm thấy tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi khuôn mặt của Ðức Maria. Trong đó, họ thấy phản ảnh sứ điệp Tin Mừng cốt yếu."[193] Dân chúng, trong sự giản dị và nghèo khó, không tách biệt Ðức Mẹ vinh quang khỏi Ðức Maria thành Na-da-rét mà chúng ta tìm thấy trong các sách Tin mừng. Trái lại, họ nhận ra sự giản dị đằng sau vinh quang và biết rằng Ðức Maria vẫn luôn là một trong số họ. Mẹ là người, giống như bất cứ người mẹ nào, đã cưu mang con mình trong lòng, cho con bú và yêu thương nuôi dạy con với sự giúp đỡ của Thánh Giuse - nhưng Mẹ cũng đã trải qua những biến động và bấp bênh của thiên chức làm mẹ (x. Lc 2,48-50). Mẹ là người ca ngợi Thiên Chúa, Ðấng "đã ban của đầy dư cho kẻ đói, và đuổi người giàu về tay trắng" (Lc 1,53); Mẹ đau khổ cùng đôi tân hôn hết rượu cho tiệc cưới (x. Ga 2,3); Mẹ biết vội vã ra đi giúp đỡ người chị họ đang cần được giúp đỡ (x. Lc 1,39-40); Mẹ để mình bị thương như bị lưỡi gươm đâm thâu, vì lịch sử dân tộc mình, nơi Con Mẹ là "dấu chỉ của sự mâu thuẫn" (Lc 2,34); Mẹ hiểu thế nào là di dân hay lưu đày (x. Mt 2,13-15); Mẹ, trong cảnh nghèo khó, chỉ có thể dâng hai chú chim bồ câu non (x. Lc 2,24); và Mẹ hiểu thế nào là bị khinh miệt vì xuất thân từ một gia đình thợ mộc nghèo (x. Mc 6,3-4). Dân chúng đau khổ nhận ra Ðức Maria đang đồng hành với họ, nên họ tìm đến Mẹ để cầu xin Mẹ giúp đỡ.[194]

79. Sự gần gũi của Mẹ khơi dậy lòng sùng kính Ðức Mẹ "bình dân" mang nhiều hình thức khác nhau nơi các dân tộc. Những khuôn mặt khác nhau của Ðức Maria - Hàn Quốc, Mexico, Congo, Ý, và rất nhiều dân tộc khác - là những cách thức Tin Mừng được hội nhập văn hóa, phản ảnh "lòng nhân từ của Thiên Chúa"[195] ở khắp mọi nơi trên trái đất, chạm đến tận cốt lõi của các dân tộc chúng ta.

80. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức tin của dân Chúa, nơi vô số anh chị em đồng đạo tự phát nhận ra Ðức Maria là Mẹ, giống như chính Chúa Kitô đã khuyến khích chúng ta làm như vậy trên thập giá. dân Chúa thích hành hương đến các đền thánh Ðức Mẹ khác nhau, tìm thấy ở đó niềm an ủi và sức mạnh để kiên trì - giống như những người, giữa những mệt mỏi và đau đớn, nhận được sự âu yếm của Mẹ. Hội nghị Aparecida đã có thể diễn tả một cách rõ ràng và đẹp đẽ giá trị thần học sâu sắc của trải nghiệm này. Không gì kết thúc Bản Ghi chú này tốt hơn những lời này:

"Chúng tôi nhấn mạnh đến những cuộc hành hương, nơi dân Chúa có thể được nhận ra trong hành trình của họ. Ở đó, người tín hữu hân hoan với niềm vui cảm thấy được bao quanh bởi biết bao anh chị em, cùng nhau tiến về Thiên Chúa, Ðấng đang chờ đợi họ. Chính Chúa Kitô đã trở thành một người hành hương, và bước đi giữa những người nghèo. Quyết định lên đường đến đền thánh đã là một lời tuyên xưng đức tin; bước đi là một bài ca hy vọng đích thực; và việc đến nơi là cuộc gặp gỡ của tình yêu. Ánh mắt của người hành hương hướng về một hình ảnh tượng trưng cho tình yêu thương và sự gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm và tận hưởng trong thinh lặng. Tình yêu cũng rung động, trút bỏ hết gánh nặng đau thương và ước mơ của mình. Lời cầu nguyện tin tưởng, tuôn trào chân thành, là biểu hiện tốt nhất của một trái tim đã từ bỏ sự tự mãn, nhận ra rằng một mình mình không thể làm gì. Một trải nghiệm tâm linh sống động được gói gọn trong một khoảnh khắc ngắn ngủi."[196]

Lạy Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con.

Ðức Giáo Hoàng Lêô XIV, trong buổi tiếp kiến dành cho vị Tổng Trưởng ký tên dưới đây cùng với Thư ký Phân Bộ Giáo Lý của Bộ Giáo Lý Ðức Tin, ngày 7 tháng 10, Lễ Ðức Mẹ Mân Côi, đã phê chuẩn Ghi chú này, được quyết định trong Phiên họp Thường kỳ của Bộ này ngày 26 tháng 3 năm 2025, và ngài đã ra lệnh công bố.

 

Ban hành tại Rôma, tại trụ sở Bộ Giáo Lý Ðức Tin, ngày 4 tháng 11 năm 2025, Lễ Thánh Charles Borromeo.

Hồng Y Victor Manuel Fernández

Tổng Trưởng

 

Ðức Ông Armando Matteo

Thư ký, Phân Bộ Giáo Lý

 

Giáo hoàng Lêô XIV

07.10.2025

 

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

[1] X. Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.

[2] Bộ Giáo lý Ðức tin, Các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Ðược cho là Siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024).

[3] Trong một số hiện tượng, hay những lần hiện ra này, Ðức Trinh Nữ Ðức Maria được gọi bằng các tước hiệu như "Ðồng Công Cứu Chuộc", "Ðấng Cứu Chuộc", "Linh Mục", "Ðấng Trung Gian", "Ðấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng", "Mẹ Ân Sủng", "Mẹ Thiêng Liêng", v.v.

[4] Xem Ðức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 26: AAS 66 (1974), 136-139.

[5] Xem ibid., 28: AAS 66 (1974), 139-141.

[6] Xem ibid., 37: AAS 66 (1974), 148-149.

[7] Ðức Gioan Phaolô II, Buổi Triều Yết Chung (9 tháng 4 năm 1997), đoạn 1. 3: L'Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4.

[8] Ðức Phanxicô, Bài giảng cho Năm Thánh Ngoại thường về Lòng Thương Xót: Thánh Lễ và Mở Cửa Thánh (8 tháng 12 năm 2015): AAS 108 (2016), 8.

[9] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 26: AAS 79 (1987), 396.

[10] Mối tương quan giữa Ađam và Chúa Kitô được tìm thấy trong các bản văn của Thánh Phaolô (xem Rm 5:18-19 và 1 Cr 15:22) cho phép các Giáo phụ thiết lập mối tương quan song song giữa Evà và Ðức Maria. Ví dụ, Thánh Justin Tử đạo, Dialogus cum Tryphone, 100, 5-6: PG 6, 710CD-711A; Irenaeus thành Lyons, Adversus haereses, III, 22, 4: PG 7/1, 959C-960A; Tertullian, De carne Christi, 17, 5: PL 1, 782B. Sự tương đồng đối lập này giữa Evà và Ðức Maria là cách tiếp cận đầu tiên mà các Giáo phụ đã thực hiện đối với chủ đề về sự hợp tác của Trinh nữ trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô: nếu Evà mang đến sự diệt vong, thì đức tin của Ðức Maria mang đến cho chúng ta sự cứu rỗi. Sự phong phú của chứng từ giáo phụ mô tả Trinh nữ là Evà mới cung cấp một số yếu tố thần học đáng lưu ý: (a) Ðức Maria và "người phụ nữ", bởi vì trong Ðức Maria, người phụ nữ lấy lại được vẻ huy hoàng ban đầu của mình và tìm thấy sự hoàn thành cuối cùng của mình; (b) Ðức Maria và Chúa Kitô là người phối ngẫu-bạn đời, người tạo thành với Con của mình cặp đôi mẫu mực và cứu rỗi của sự quy tụ hoặc phục hồi Ðấng Mê-xi-a; (c) Ðức Maria và Giáo Hội, qua đó một mối tương quan kép được thiết lập giữa Ðức Maria và Giáo Hội: mối tương quan vừa là mẫu gương (như nguyên mẫu) vừa là Mẹ của Giáo Hội.

[11] Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.

[12] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 31: AAS 79 (1987), 402-403.

[13] Ví dụ, xem Ephrem, Hymni de Nativitate: SC 459; Gioan Ðamascenô, In dormitione Deiparae I, 8: SC 80, 100-104.

[14] Ví dụ, xem Octoechus magnus, Rome 1885, 152: "Chúng con đã được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ Mẹ, ôi Theotokos, Ðấng trọn đời đồng trinh; vì Mẹ đã sinh ra Thiên Chúa làm người vì chúng con. Vì vậy, như điều phải làm, tất cả chúng con thành tâm tôn vinh Mẹ" (dịch từ nguyên bản Hy Lạp của Theotokion trong bài thơ Kathisma sau khổ đầu tiên). Một ví dụ quan trọng hơn về cách diễn đạt lòng sùng kính Ðức Mẹ là bài Hymnus Akathistos nổi tiếng gồm hai mươi bốn khổ (thế kỷ thứ năm); tựa đề chỉ đơn giản có nghĩa là bài thánh ca này phải được nghe khi đứng, chứ không phải khi ngồi (như Tin mừng được nghe khi đứng) như một dấu hiệu của lòng tôn kính đặc biệt đối với Ðức Trinh Nữ Maria. Trong bài thánh ca đó, nhà thơ đã tô điểm cho Ðức Maria bằng những tính từ và ẩn dụ tượng trưng tuyệt đẹp, cầu xin Mẹ chấp nhận lời dâng hiến đầy thi vị của ông và cầu bầu cho sự cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi trần gian (xem E.M. Toniolo, OSM, Akathistos Inno alla Madre di Dio, Rome 2017).

[15] Bằng chứng lâu đời nhất về danh hiệu này có từ thế kỷ thứ ba ở Ai Cập. Xem Papyrus 470 của Thư viện John Rylands (Manchester, Vương quốc Anh), trong đó có phần lớn lời cầu khẩn Ðức Mẹ bằng tiếng Hy Lạp. Phiên bản tiếng Latinh của lời cầu nguyện này như sau: "Sub tuum praesidium confugimus, Sancta Dei Genetrix. Nostras deprecationes ne despicias in necessitatibus, sed a periculis cunctis libera nos semper, Virgo gloriosa et benedicta" (bản tiếng Việt: "Chúng con trông cậy rất thánh Ðức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong cơn gian nan thiếu thốn, Ðức Nữ Ðồng Trinh hiển vinh sáng láng hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen."; bản dịch tiếng Anh, Little Office of the Blessed Virgin Mary , Catholic Book Publishing, New Jersey 1988, 186).

[16] Các ảnh tượng biểu tượng truyền thống về Ðức Trinh Nữ tuân theo một loạt các mô hình đã được thiết lập rõ ràng, đặc biệt: Odeghetria ("Người chỉ đường"), trong đó Mẹ chỉ tay chỉ đường đến với Chúa Giêsu, con Mẹ, đang ngồi trong lòng Mẹ; Eleousa ("Sự dịu dàng"), thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa Mẹ và Con, với Chúa Con áp má vào má Mẹ; Platytera ("Rộng rãi hơn cả bầu trời"), bởi vì ngài mang Chúa Kitô trong mình, được mô tả là Hài Nhi trên ngực. Từ ba mô hình này, hầu hết các mô hình khác bắt nguồn từ đó, chẳng hạn như Galaktotrophousa, người nuôi dưỡng Hài Nhi bằng sữa của mình; Kyriotissa hay "Lệnh Bà", người bế Hài Nhi trên đầu gối như trên ngai vàng; Panagia ("Toàn Thánh"), khoác áo choàng đỏ thể hiện sự trọn vẹn của sự thánh thiện; và De#sis, nơi Ðức Maria xuất hiện bên phải Chúa Con của ngài, ngự trên ngai vàng uy nghi (Pantokrator) đang cầu bầu cho chúng ta, thường bên cạnh Thánh Gioan Tẩy Giả ở bên trái. Trong các ảnh tượng khác, Ðức Maria xuất hiện cầu bầu cùng các vị thánh khác - thường bao gồm cả Thánh Gioan Tẩy Giả, với tư cách là những đại diện cuối cùng của Giao Ước Cũ và đồng thời là những thành viên đầu tiên của dân mới.

[17] X. Ðức Bênêđictô XVI, Buổi tiếp kiến chung (27 tháng 5 năm 2009): L'Osservatore Romano, 28 tháng 5 năm 2009, 1; Gregory thành Narek, Prex 26 và 80: Ad Deiparam; SC 78, 160-164, 428-432.

[18] Các tác giả Ðông phương như Thánh Jacob thành Serugh (X 521), Thánh Romanos Melodist (X555-562), Thánh Gioan Ðamascenô (X749) và Gioan Geometres (X1000) đã đề cập đến chủ đề về sự cộng tác của Ðức Maria với hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô trên thập giá.

[19] X. Ber-na-đô thành Clairvaux, In Purificationem Deiparae, III, 2: PL 183, 370C.

[20] X. Arnold thành Bonneval, De laudibus B. M. Virginis, I, 3c. 12,4: PL 189, 1727A.

[21] Trong Huấn quyền trước Công đồng Vatican II, những điều sau đây nổi bật: Ðức Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Iucunda Semper Expectatione (8 tháng 9 năm 1894): ASS 27 (1894-1851), 177-184; Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Ðức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum Laetissimum (2 tháng 2 năm 1904): ASS 36 (1903-1904), 453; Bênêđictô XV, Tông thư Inter Sodalicia a la Cofradía de Ntra. Sra de la Buena Muerte (22 tháng 3 năm 1918): AAS 10 (1918), 182; Ðức Piô XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 165-178; Ðức Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis Christi (29/6/1943): AAS 35 (1943), 193-248; Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954): AAS 46 (1954), 634-635.

[22] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium (21/11/1964), 56: AAS 57 (1965), 60.

[23] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): "Nữ trinh Diễm phúc Maria, ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai, nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng và nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ nhân loại, đã được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ của Tội Nguyên Tổ"; Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58: "Ðược cứu chuộc một cách cao cả hơn nhờ công nghiệp của Con mình."

[24] X. Ambrose, Exp. Evàngelii secundum Lucam, II, 7: PL 15, 1555.

[25] X. Ðức Phanxicô, Kinh Truyền Tin (15 tháng 8 năm 2013): L'Osservatore Romano, 17-18 tháng 8 năm 2013, 8.

[26] Ðức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 25: AAS 66 (1974), 135.

[27] Mẹ không chỉ đơn thuần là một "người mẹ-người vú nuôi". Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 361-433, 384-387.

[28] Ðức Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ trọng Truyền tin (25 tháng 3 năm 2006): AAS 98 (2006), 330; xem Ðức Phaolô VI, Tông huấn Signum Magnum (13 tháng 5 năm 1967), 5: AAS 59 (1967), 469: "Ngay khi được sứ thần Gabriel trấn an rằng Thiên Chúa đã chọn ngài làm người mẹ tinh tuyền của Con Một Người, Ðức Maria đã không ngần ngại chấp nhận một công việc đòi hỏi tất cả sức lực của bản chất mỏng manh của mình và tuyên bố: 'Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói' (Lc 1:38)."

[29] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết kịch thần học: Dramatis Personae: Những con người trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 295. X. Cyril thành Alexandria, Thư thứ hai gửi Nestorius: "Vì lý do này [các Giáo phụ] đã không ngần ngại nói về Ðức Trinh Nữ thánh thiện là Mẹ Thiên Chúa": DH 251; và Công đồng Êphêsô, can. 1: DH 252.

[30] Theo như chúng ta biết cho đến ngày nay, sự kiện này xảy ra vào thế kỷ XV khi một nhà soạn thánh ca dòng Biển Ðức để lại cho hậu thế lời cầu nguyện viết tay sau đây, được lưu giữ tại Tu viện Thánh Phêrô ở Salzburg: "Pia, dulcis et goodness / nullo prorsus luctu digna / si fletum hinc eligeres / ut compassa Redemptori / captivato transgressori / tu corredemptrix fieres" ("Yêu thương, ngọt ngào và nhân hậu / hoàn toàn không đáng phải chịu bất cứ nỗi đau buồn nào / nếu từ nay ngài chọn khóc lóc / như một người cùng chịu đau khổ với Ðấng Cứu Chuộc / cho tội nhân bị giam cầm / ngài sẽ là đồng công cứu chuộc"): De compassione BMV, 20: G.M. Dreves (biên tập), Analecta Hymnica Medii Aevi, XLVI, Leipzig 1905, n. 79, 127.

[31] Các nhà thần học hiểu danh xưng "Ðồng Công Cứu Chuộc" theo nhiều cách khác nhau: (a) Sự hợp tác trực tiếp, mang tính Kitô giáo, hay tối đa, đặt sự hợp tác của Ðức Maria gần gũi, trực tiếp và ngay trước Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô (sự cứu chuộc khách quan). Theo cách hiểu này, công trạng của Ðức Maria, mặc dù phụ thuộc vào Chúa Kitô, nhưng sẽ có giá trị cứu chuộc cho sự cứu rỗi; (b) sự hợp tác trung gian hay tối thiểu, sẽ giới hạn trong lời "Xin Vâng" của Mẹ trong biến cố Truyền Tin. Ðây sẽ là sự hợp tác trung gian, làm cho sự Nhập Thể trở thành khả thi như một bước mở đầu cho Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô; (c) Sự hợp tác trực tiếp nhưng mang tính tiếp nhận hay mang tính Giáo Hội, hợp tác trong công trình cứu chuộc khách quan trong chừng mực Mẹ chấp nhận hoa trái của hy lễ cứu chuộc của Ðấng Cứu Thế, đại diện cho Giáo Hội. Ðây sẽ là một sự hợp tác trực tiếp nhưng cũng mang tính tiếp nhận, vì Ðức Maria đơn giản đã chấp nhận Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô, qua đó trở thành "Giáo Hội đầu tiên".

[32] Dưới triều đại giáo hoàng của Thánh Piô X, danh hiệu "Ðồng công cứu chuộc" xuất hiện trong một văn kiện của Thánh bộ Nghi lễ và hai văn kiện của Bộ Văn phòng Thánh. X. Thánh bộ Nghi lễ, Dolores Virginis Deiparae (13 tháng 5 năm 1908): ASS 41 (1908), 409; Thánh bộ Văn phòng Thánh, Sắc lệnh Sunt quos amor (26 tháng 6 năm 1913): AAS 5 (1913), 364, ca ngợi tập tục thêm vào tên Chúa Giêsu tên "của mẹ Người, Ðấng Ðồng công cứu chuộc của chúng ta, Ðức Maria Rất Thánh"; Oración indulgenciada (22 tháng 1 năm 1914): AAS 6 (1914), 108, trong đó Ðức Maria được gọi là "Ðấng Ðồng công cứu chuộc nhân loại". Ðức Giáo Hoàng đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Ðồng Công Cứu Chuộc" là Ðức Piô XI trong một Sắc lệnh ngày 20 tháng 7 năm 1925 về Nữ Vương Mân Côi Pompeii: Ðức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, số 628: "Xin Mẹ cũng hãy nhớ rằng trên đồi Canvê, Mẹ đã trở thành Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc, hợp tác với sự đóng đinh của trái tim Mẹ để cứu rỗi thế giới, cùng với Người Con chịu đóng đinh của Mẹ;" Xem Diễn văn "Ecco di Nuovo" gửi các tín hữu hành hương từ Giáo phận Vicenza (ngày 30 tháng 11 năm 1933): L'Osservatore Romano, ngày 1 tháng 12 năm 1933, 1.

[33] Xem Ðức Piô XI, Thông điệp phát thanh nhân dịp bế mạc Năm Thánh Cứu Chuộc tại Lộ Ðức (28/04/1935): L'Osservatore Romano 28/29/04/1935, 1.

[34] X. Ðức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, n. 628.

[35] X. Ðức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (10/12/1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1646; Tiếp kiến chung (8 tháng 9 năm 1982): Insegnamenti V/3 (1982), 404; Kinh Truyền Tin (4/11/1984): Insegnamenti VII/2 (1984), 1151; Bài giảng tại Ðền Ðức Mẹ Bình Minh ở Guayaquil (Ecuador) (31 tháng 1 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 319; Kinh Truyền Tin (31 tháng 3 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 890; Diễn văn gửi các tín hữu hành hương của "Opera Federativa Trasporto Ammalati a Lourdes" (24 tháng 3 năm 1990): Insegnamenti XIII/1 (1990), 743; Kinh Truyền Tin (6 tháng 10 năm 1991): Insegnamenti XIV/2 (1991), 756. Tuy nhiên, sau Feria IV của Bộ Giáo lý Ðức tin vào ngày 21 tháng 2 năm 1996, Thánh Gioan Phaolô II đã ngừng sử dụng tước hiệu "Ðồng công cứu chuộc". Ðiều quan trọng cần lưu ý là danh hiệu này không xuất hiện trong Thông điệp Redemptoris Mater ngày 25 tháng 3 năm 1987 của ngài - văn kiện tuyệt vời trong đó Thánh Gioan Phaolô II giải thích vai trò của Ðức Maria trong công trình Cứu chuộc.

[36] J. Ratzinger, Biên bản Hội nghị Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Ðức tin.

[37] J. Ratzinger - P. Seewald, Thiên Chúa và Thế giới: Tin và Sống trong Thời đại Chúng ta: Ðối thoại với Peter Seewald, dịch. H. Taylor, San Francisco 2002, 306.

[38] Ðức Phanxicô, Bài giảng lễ Ðức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2019): AAS 112 (2020), 9.

[39] Ðức Phanxicô, Suy niệm hàng ngày về "Ðức Mẹ Sầu Bi: Người Môn Ðệ và Mẹ" (3 tháng 4 năm 2020): L'Osservatore Romano, 4 tháng 4 năm 2020, 8.

[40] Ðức Phanxicô, Tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L'Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.

[41] Ðức Piô XII, Thông điệp Haurietis Aquas (15/5/1956), 10: AAS 48 (1956), 321.

[42] X. Thánh Anrê thành Crete, In Nativitatem Mariae, IV: PG 97, 865A.

[43] So sánh với Ðức Giáo Hoàng Constantinople, In Annuntiationem s. Deiparae: PG 98, 322BC.

[44] So sánh với Gioan Damascene, In dormitionem Deiparae, I: PG 96, 712B-713A.

[45] Ngày 12 tháng 1 năm 1921, Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XV - theo lời thỉnh cầu của Ðức Hồng Y Désiré-Joseph Mercier - đã ban cho toàn thể nước Bỉ Lễ Ðức Trinh Nữ Maria "Ðấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng", được cử hành hàng năm vào ngày 31 tháng 5. Sau đó, theo lời thỉnh cầu, Tòa Thánh đã ban cùng Lễ Ðức Mẹ và Thánh Lễ này cho nhiều giáo phận và dòng tu khác: so sánh với AAS 13 (1921), 345.

[46] So sánh với Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63; Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Ðức Mẹ, "Một Tín điều Ðức Mẹ Mới? Bình luận về Tuyên bố của Học viện Ðức Mẹ", L'Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), ngày 25 tháng 6 năm 1997, 10: "Hiến chế Lumen gentium, do sự lựa chọn thận trọng không chứa đựng một định nghĩa tín lý về sự trung gian, đã được chấp thuận với 2,151 phiếu bầu trong số 2,156 phiếu... Chỉ mới 33 năm sau khi ban hành Lumen gentium... bối cảnh giáo hội, thần học và chú giải... về cơ bản không thay đổi." Lời khẳng định này của Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Ðức Mẹ đã được bổ sung vào Tuyên bố của Ủy ban Thần học được thành lập trong khuôn khổ Ðại hội Ðức Mẹ học Quốc tế lần thứ 12 (Czestochowa, 12-24 tháng 8 năm 1996), trong đó Ủy ban này cho rằng việc định nghĩa tín điều về Ðức Maria là "Ðấng Trung gian", "Ðấng Ðồng công cứu chuộc" và "Ðấng Bào chữa" là không phù hợp. Xem Ủy ban Thần học của Ðại hội Czestochowa, "Yêu cầu định nghĩa tín điều về Ðức Maria là Ðấng Trung gian, Ðấng Ðồng công cứu chuộc và Ðấng Bào chữa": L'Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), 25 tháng 6 năm 1997, 10.

[47] Ðức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Khóa họp thứ hai Công Ðồng Vatican (21/11/1964): AAS 56 (1964), 1014.

[48] X. Bernard ở Clairvaux, Hom. in laudibus Virginis Matris, IV, 8: PL 183, 83CD-84AB.

[49] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.

[50] Xem ibid., 53, 56, 61, 63: AAS 57 (1965), 59; 60; 63; 64.

[51] X. ibid., 60, 62, 63, 65: AAS 57 (1965), 62; 63; 64; 65.

[52] Ibid., 62: AAS 57 (1965), 63.

[53] X. Ðức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L'Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.

[54] Bộ Giáo lý Ðức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 13: AAS 92 (2000), 754-755.

[55] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.

[56] Bộ Giáo lý Ðức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 14.

[57] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965), 5; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 112: AAS 105 (2013), 1066.

[58] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 65: AAS 57 (1965), 64-65; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 288: AAS 105 (2013), 1136.

[59] Origen, In Numeros homilae, XII, 1: PG 12, 657.

[60] Ambrose, Thư tín. 29, 24: PL 16, 1106D.

[61] Thomas Aquinas, Commentaria super Ioannem, ch. 7, bài giảng. 5.

[62] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): "nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và xét về công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ nhân loại".

[63] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 38: AAS 79 (1987), 411.

[64] X. ibid., 21: AAS 79 (1987), 387-389.

[65] X. ibid., 23: AAS 79 (1987), 390-391.

[66] Ðức Phanxicô, Suy niệm hằng ngày "Ðức Mẹ Sầu Bi: Môn đệ và Mẹ" (3 tháng 4 năm 2020).

[67] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.

[68] X. Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 4: AAS 79 (1987), 421.

[69] X. Ðức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Công đồng Vatican II (21 tháng 11 năm 1964): AAS 56 (1964), 1015: "Vậy, Ðức Maria, với tư cách là Mẹ Chúa Kitô, cũng phải được xem là Mẹ của các tín hữu và của tất cả các mục tử; nghĩa là của Hội Thánh"; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, đoạn 963.

[70] Ðức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 22: AAS 66 (1974), 133.

[71] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết Kịch nghệ Thần học: Dramatis Personae: Những Ngôi Vị trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 333.

[72] X. Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 56: AAS 57 (1965), 60: "[Bà] đã hoàn toàn hiến thân, như một nữ tỳ của Chúa, cho con người và công trình của Con mình, dưới quyền và với Người, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng."

[73] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 23: AAS 79 (1987), 391.

[74] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965), 66: "Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại."

[75] Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411; xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý, Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63. Nội dung về chức làm mẹ thiêng liêng của Ðức Maria hiện diện trong các bản văn giáo phụ đầu tiên và có nền tảng Kinh Thánh chủ yếu trong Tin mừng Thánh Gioan - cụ thể là trong trình thuật về Thập Giá.

[76] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 388: "[Thông tin] về biến cố Cana phác họa những gì thực sự được thể hiện như một kiểu làm mẹ mới theo tinh thần chứ không chỉ theo xác thịt, nghĩa là sự quan tâm của Ðức Maria đối với con người, việc Mẹ đến với họ trong muôn vàn nhu cầu và mong muốn của họ."

[77] Xem Ðức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2020): AAS 112 (2020), 19.

[78] Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411-412; xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.

[79] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp kiến Chung (9 tháng 4 năm 1997), 2: L'Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4: "Ðức Maria# đã cộng tác trong suốt biến cố này và trong vai trò làm mẹ; do đó, sự cộng tác của Mẹ bao trùm toàn bộ công trình cứu độ của Chúa Kitô."

[80] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 970.

[81] Xem Ðức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L'Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8: "[Ðức Maria] chỉ Ðấng Trung gian: Mẹ là Ðấng Trung gian. Sự hiện diện của Mẹ ở khắp mọi nơi trong nghệ thuật ảnh tượng Kitô giáo, đôi khi rất nổi bật, nhưng luôn luôn liên quan đến Con của Mẹ và trong sự kết nối với Người. Ðôi tay, ánh mắt, cử chỉ của Mẹ là một 'bài giáo lý' sống động, luôn chỉ ra viên đá góc tường, trung tâm: Chúa Giêsu. Ðức Maria hoàn toàn hướng về Người (x. GLHTCG, 2674)."

[82] Ðức Gioan Phaolô II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae (16 tháng 10 năm 2002), 4, trích dẫn Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 66: AAS 57 (1965), 65.

[83] Xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63: "[Vai trò phụ thuộc này của Ðức Maria."

[84] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 40: AAS 79 (1987), 414-415.

[85] Cùng nguồn, 43: AAS 79 (1987), 420.

[86] X. Ðức Phanxicô, Diễn văn nhân dịp đọc kinh Mân Côi tại Vương cung thánh đường Thánh Ðức Maria Cả, (4 tháng 5 năm 2013): L'Osservatore Romano, 6-7 tháng 5 năm 2013, 7.

[87] Ðức Leo XIV, Bài giảng trong Thánh lễ Năm Thánh của Tòa thánh (9 tháng 6 năm 2025): L'Osservatore Romano, 10 tháng 6 năm 2025, 2.

[88] X. Ðức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (24 tháng 11 năm 2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.

[89] Ðức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 176: L'Osservatore Romano, 24 tháng 10 năm 2024, 10.

[90] X. Ðức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L'Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.

[91] Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 388-389.

[92] X. Phanxicô, Bài giảng Lễ Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01/01/2024): L'Osservatore Romano, 02/01/2024, 2.

[93] J.L. Guerrero Rosado, Nican mopohua: Aquí se cuenta# el gran acontecimento, Cuautitlán 2003, nn. 23, 119.

[94] Ðức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (13 tháng 8 năm 1997), 4: L'Osservatore Romano, 14 tháng 8 năm 1997, 4.

[95] Ðức Phanxicô, Bài giảng lễ Ðức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2022): L'Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2022, 8; xem. Bài giảng Lễ Ðức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2023): L'Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2023, 11.

[96] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965), 11; Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 96: AAS 116 (2024), 1398.

[97] X. J. Ratzinger, Biên bản Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Ðức tin.

[98] Xem. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 389. Ðặc tính chuyển cầu của sự trung gian mẫu tử của Ðức Maria là giáo huấn thường xuyên của các Giáo hoàng gần đây. Cf. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Ðức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum (02/02/1904): AAS 36 (1903-1904), 455; Ðức Piô XII, Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954), 17: AAS 46 (1954), 636.

[99] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.

[100] Thánh Augustinô, De peccatorum Meriis et remissione et de Baptisto parvulorum, I, 11, 13: CSEL 60, 14.

[101] Thánh Augustinô, Bài giảng 23/A: CCSL 41, 322.

[102] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 114, A. 6, đồng.

[103] Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7: ÐH 1530.

[104] Ðức Piô IX, Tông Hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616.

[105] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 113, A. 9, đồng.

[106] Như trên, q. 114, A. 6, quảng cáo 3.

[107] Như trên, q. 114, A. 5, đồng.

[108] X. như đã dẫn, q. 114, A. 1, đồng.

[109] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 389.

[110] Xem Ðức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (8 tháng 6 năm 2016): L'Osservatore Romano, 9 tháng 6 năm 2016, 8.

[111] Xem Ðức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (24 tháng 3 năm 2021): L'Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2764.

[112] Xem Ðức Phanxicô, Diễn văn của Ðức Thánh Cha trong Giờ Kinh Mân Côi (31 tháng 5 năm 2013): L'Osservatore Romano, 2 tháng 6 năm 2013, 8.

[113] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.

[114] Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo, par. 2003.

[115] Như trên, số 1999.

[116] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 114, a.1, co.; Quaestiones disputatae de Veritate, 27, a. 3, ad.10.

[117] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 64, A. 1, co.: "solus Deus illabitur animae."

[118] X. Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7 (DH 1528-1531), và Ðiều 11 của Bộ Luật Công Chính Hóa (DH 1561).

[119] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 28, A. 2, ad.8; Summa contra gentiles, II, cap. 98, n. 18; ibid., III, cap. 88, n. 6.

[120] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c. 5.

[121] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 64, A. 1, co.

[122] Chẳng hạn, xem Gennadius xứ Massilia, De ecclesiasticis dogmatibus, 83: PL 58, 999B; John Cassian, Collationes, VII, 13: PL 49, 683A; Jerome, Interpretatio libri Didymium de Spiritu Sancto, 60: PL 23, 158C..

[123] X. Thánh Bonaventure, Collationes in Hexaemeron, XXI, 18: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 434.

[124] X. Thánh Bonaventure, Sententiarum Lib. I, d.14, a. 2, q. 2, ad 2: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 250.

[125] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 3, 251.

[126] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 4 và 8, 251-252.

[127] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 33, A. 3; như đã dẫn., III, q. 23, A. 4.

[128] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 215; xem. Tổng luận Thần học, III, q. 2, A. 10.

[129] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 8, A. 5, đồng.; xem. như đã dẫn, q. 2, A. 12; Một. 9; q. 48, A. 1.

[130] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.

[131] Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 29, A. 5, co.

[132] Bộ Giáo lý Ðức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), 10; xem. Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 59-63: AAS 116 (2024), 1386-1387.

[133] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (7/12/1965), 22: AAS 58 (1966), 1042-1043.

[134] X. Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, co.

[135] X. Thomas Aquinas, In Ioannes Evàngelium, cap. 1, câu 16, bài 10; Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, ad.1.

[136] Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.

[137] Dante Alighieri, Thần khúc, Paradiso, XXXIII, 1.

[138] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60, 62: AAS 57 (1965), 62-63; Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 26.

[139] Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, Kinh Tiền tụng cho Lễ trọng Ðức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Sách Lễ Rôma, Nhà xuất bản Sách Công Giáo, New Jersey 2011, 873.

[140] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.

[141] Xem Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2002.

[142] Xem Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận Thần học I, câu 25, câu 3, mục 4. Cũng như công trình sáng tạo, sự công chính hóa "thuộc về một mình Thiên Chúa để thực hiện ngay lập tức."

[143] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.

[144] Xem Origen, In Genesim homiliae XIII, 3-4: PG 12, 232B-234CD.

[145] X. Thánh Cyril thành Alexandria, In Ioannis Evàngelium, II, 4, 13-14: PG 73, 300C.

[146] X. Thánh Cyril thành Alexandria, Commentarius in Isaiam Prophetam, V, II, 55, 1-2: PG 70, 1220A.

[147] X. Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica, XVI, 11: PG 33, 932C.

[148] X. John Chrysostom, Hom. In Ioannem, 51, 1: PG 59, 283.

[149] Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.

[150] Ambrose., De Noe, 19, 70: PL 14, 395A.

[151] X. Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.

[152] X. Jerome, Comm. in Zachariam, III, 14, 8.9: PL 25, 1528 C.

[153] Thánh Gregory Cả, Hom. in Ezechielem, I, 10, 6: PL 76, 888B.

[154] X. Thánh Hilary, Tractatus in Psalmos, 64, 14: PL 9, 421B.

[155] Thánh Augustinô, In Ioannis Evàngelium, 32, 4: PL 35, 1643D.

[156] Thánh Thomas Aquinas, Super Ioannem, chap. 7, bài giảng. 5.

[157] Ðã dẫn.; xem. Tổng luận Thần học, II-II, q. 178, A. 1, s.c.

[158] Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica XVI, 12: PG 33, 933B.

[159] Thánh Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra (15/5/1961): AAS 53 (1961), 462.

[160] Ðức Gioan Phaolô II, Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Chúa Giêsu, Paray-le-Monial (5 tháng 10 năm 1986): L'Osservatore Romano, 6 tháng 10 năm 1986, 7, được Ðức Phanxicô trích dẫn, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 182: AAS 116 (2024), 1427.

[161] Ðức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 5: AAS 101 (2009), 643.

[162] Ðức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 198, 200: AAS 116 (2024), 1432.

[163] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 5, A. 6, co. và như trên, ad.1; Những câu hỏi tranh luận về Chân lý, q. 27, A. 3, s.c. 5. Những lập luận mà Thánh Thomas Aquinas sử dụng để giải thích tại sao chỉ có Thiên Chúa chứ không phải thụ tạo nào mới có thể ban ân sủng thì không thể bị coi là bị thay thế, kể cả trong công trình của ngài hay sau đó.

[164] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; xem. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 25, A. 3, ad.4; Scriptum super Sententiis., II, d. 26, q. 1, A. 2, co.; như đã dẫn., IV, d. 5, q. 1, A. 3, qc. 1, ad.1.

[165] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c.5. Một lần nữa, người ta có thể nhắc lại rằng: "Sed mentem, in qua est gratia, nulla creatura illabitur".

[166] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.

[167] Cùng nguồn, 62: AAS 57 (1965), 63.

[168] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa contra Gentiles, II, ch. 21, no. 7. Một tác nhân công cụ đóng góp một điều gì đó của riêng nó: "Omne agens instrumentale exequitur actionem principalis agentis per aliquam actionem propriam et connaturalem sibi."

[169] Như trên, III, ch. 147, mệnh giá. 6; xem, Summa Theologiae, I, q. 45, A. 5, co.

[170] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I-II, q. 5, A. 6, ad 1.

[171] Xem Công đồng Trentô, Phiên họp VI. Decretum de iustificatione, 8: DH 1532.

[172] Xem Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5, co.: "Khi ai có ân sủng, thì ân sủng đã có không phải là công trạng." Mặc dù người được công chính hóa có thể xứng đáng được tăng trưởng trong đời sống ân sủng, nhưng việc được công chính hóa, trở thành bạn của Thiên Chúa nhờ ân sủng, sẽ luôn luôn là hoàn toàn nhưng không.

[173] Ðiều mà Thánh Tôma Aquinô gọi là "sự sắp đặt cuối cùng", xảy ra đồng thời với việc tuôn đổ ơn thánh hóa, chính là công trình trực tiếp của ân sủng. Ðó là "sự sắp đặt cuối cùng mà hình thức tất yếu phải tuân theo": Thánh Tôma Aquinô, Sententia Metaphysicae, lib. 5, lect. 2, n. 5; so sánh Scriptum super Sententiis, I, d. 17, q. 2, A. 3, co.; Summa contra gentiles, lib. 2, mũ lưỡi trai. 19, n. 6; Compendium theologiae, I, n. 105.

[174] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.

[175] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 45: AAS 79 (1987), 422-423.

[176] Ðức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L'Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.

[177] Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 387.

[178] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58-59.

[179] Thánh Au-gus-ti-nô, Bài giảng 72/A, 7: CCSL 41Ab, 117.

[180] Ðức Phanxicô, Buổi tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L'Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.

[181] Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 35: AAS 66 (1974), 147.

[182] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 46: AAS 79 (1987), 424.

[183] Bộ Giáo lý Ðức tin, Các quy tắc tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được cho là siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024), đoạn 1. 12: AAS 116 (2024), 782.

[184] Ðức Phanxicô, Tiếp kiến chung (16 tháng 2 năm 2022): L'Osservatore Romano, 16 tháng 2 năm 2022, 2.

[185] Ðức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1134-1135.

[186] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 42: AAS 98 (2006), 252.

[187] Ðức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 284: AAS 105 (2013), 1134.

[188] X. như trên, 113: AAS 105 (2013), 1067.

[189] Ðức Leo XIV, Phép lành Tòa thánh đầu tiên "Urbi et Orbi" (8 tháng 5 năm 2025): L'Osservatore Romano, 9 tháng 5 năm 2025, 3.

[190] Ðức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 37 (15 tháng 8 năm 2022): AAS 114 (2022), 1255.

[191] Ðức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.

[192] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 28: AAS 79 (1987), 398.

[193] Mỹ Latinh và Hội đồng Giám mục Caribe, Ðại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265.

[194] Xem Ðức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 35: AAS 79 (1987), 407.

[195] Ðức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2024): AAS 116 (2024), 20.

[196] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Ðại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 259.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page