Tông Huấn Pastores Dabo Vobis

về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay

của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 


 

Tông Huấn Pastores Dabo Vobis về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay.

(XBVN 4-12-2012)

LTS: Nhân dịp Năm Linh Mục và vì nhu cầu tham chiếu qua internet cho những người không có bản văn trong tay, chúng tôi mạo muội cho đánh máy lại bản dịch Việt ngữ Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, mà chúng tôi không biết dịch giả, để phổ biến phục vụ nhu cầu học hỏi. Xin chân thành cám ơn dịch giả đã cống hiến cho độc giả một tài liệu rất quan trọng trong việc đào tạo linh mục. (Xuân Bích Việt Nam).

Giới Thiệu Tông Huấn Pastores Dabo Vobis

I. Nhận Ðịnh Sơ Khởi

Bản dịch Tông Huấn bằng Việt Ngữ, "Những mục tử như lòng mong ước", mới ra mắt chưa tròn một tháng, với số lượng trên 1,000 cuốn, đã cạn sạch. Nhiều nơi còn đặt mua thêm 30, 40, 60... Chắc chắn sẽ có tái bản mặc dầu bản dịch chưa phải là hoàn chỉnh. Ðược biết có một số giám mục, linh mục và cả nữ tu đang sử dụng tối đa văn bản (đọc đi đọc lại, gạch đích, ghi chú, rút tia đề tài, suy niệm,...) để làm của ăn nuôi sống bản thân, để làm chất liệu hướng dẫn cộng đoàn trong hoàn cảnh hiện tại.

Phải chăng tác phẩm của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đúng lúc để cứu chữa cơn sốt linh mục, để đáp ứng nỗi khát khao mong chờ rạo rực từ nhiều phía, phía Thiên Chúa, phía Giáo Hội nói chung, phía các linh mục nói riêng, và nhất là cả phía giáo dân nữa: làm sao để có được "những linh mục như lòng mong ước".

Chúng ta không có quyền nhìn và nghe ngóng sự kiện một cách chủ quan, giàn lược hoặc quá lạc quan. Có thể có những người chỉ vì "sính trí thức" mà chạy theo Tông Huấn để tự chứng tỏ chính mình. Cũng có thể có những người chủ trương cơ hội chỉ trích dẫn và chỉ nhấn mạnh những gì trong Tông Huấn đem lại cho lợi ích cấp thòi. Không thiếu những người lần giờ văn kiện với một thái độ hời hợt và thiển cận. Một số đông sẽ vội vàng bỏ cuộc vì nản chí, vì ngại đương đầu với những khó khăn đòi phải tiến sâu vào ngõ ngách của vấn đề.

II. Những Khó Khăn

Khó khăn dường như là điều đương nhiên. Thế nhưng không vì vậy mà người Kitô hữu và nhất là người linh mục lại không cùng với Ðức Giáo Hoàng tìm hiểu và cảm nghiệm sâu xa nhu cầu bức bách của Giáo Hội hiện nay, một "Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ", một Giáo Hội không lẫn tránh khó khăn nhưng luôn tìm cách đương đầu và vượt qua. Một chi tiết được Tông Huấn lặp đi lặp lại khá nhiều lần là người linh mục vừa "ở trong" Giáo Hội vừa "đứng trước" Giáo Hội: đây lại càng là một thôi thúc để chúng ta nhận định những khó khăn của văn kiện để rồi cũng say mê văn kiện như người soạn thảo đã viêt lên với một tâm hồn dạt dào, tha thiết và say sưa.

1. Phải thú nhận rằng khó khăn thoạt đầu của chúng ta là khó khăn chủ quan của những con người nghiêng chiều về khuynh hướng thực dụng. Chúng ta quen dùng "mì ăn liền", những bài giảng soạn sẵn, những mẫu suy niệm vắn gọn, mau hấp dẫn và chống lôi cuốn, những áng văn hoa mỹ dành để thưởng thức hơn là đòi phải suy nghĩ bằng tất cả tâm hồn. Ðây cũng là nhận xét của Ðức Giáo Hoàng ngay trong phần dẫn nhập Tông Huấn: "...Về phần những linh mục ít lâu nay đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng# họ cảm thấy bó buộc phải xét lại lối sống của mình, xét lại những chọn lựa ưu tiên của mình... và đồng thời cảm nghiệm mỗi lúc một sâu sắc sự cần thiết phải có một nền đào tạo trường kỳ". Trong chương I khi đặt mầu nhiệm linh mục trước những thách đố của thiên nhiên kỳ đang kết thúc, ngài đã nhắc nhở: "truy tầm một sự hiểu biết chính xác và sâu rộng về bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác là đường lối phải tuân theo để có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng về căn tính linh mục". Ý thức khó khăn thoạt đầu này, chúng ta mượn lời Thánh Augustinô để cùng khuyến khích nhau đi vào Tông Huấn: Tolle et lege.

2. Khó khăn cơ bản không thể không nhận ra đó là phạm vi bao la và sâu rộng của vấn đề đào tạo linh mục. Ðề tựa của Tông Huấn là: "Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay". Ngay cả khi chúng ta tự giới hạn khái niệm "đào tạo" vào vấn đề đã là mênh mông rồi. Huống nữa, ở đây, Ðức Giáo Hoàng lại mở rộng khái niệm "đào tạo". Chẳng những đào tạo là đào tạo các ứng sinh linh mục nhưng còn là đào tạo chính các linh mục, ngài coi đó là hai giai đoạn của cùng một tiến trình đào tạo: đào tạo khai đạo (formation initiale) và đào tạo trường kỳ (formation permanente), được khai triển và trình bày trong hai chương cuối là chương V và chương VI.

a) Chương V lấy hình ảnh Nhóm Mười Hai chung quanh Chúa Giêsu trước khi được sai đi làm kim chỉ nam và là chương dài nhất trong Tông Huấn. Phần I bàn về các chiều kích của việc đào tạo các ứng sinh gồm có: nhân bản, trí thức, thiêng liêng và mục vụ. Phần II đề cập tới các môi trường đào tạo như đại chủng viện, tiểu chủng viện và những hình thức khác. Phần III nhắm tới những người đảm nhận trách nhiệm đào tạo, trước hết là Giáo Hội và Giám Mục, sau đó là cộng đoàn hữu trách ở chủng viện, các giáo sư thần học và chính bản thân ứng sinh.

b) Chương VI tuy có phần ngắn hơn nhưng có thể được coi như là chương cao điểm. Hình ảnh chỉ đạo cho việc đào tạo trường kỳ trong chương VI là lời khuyên nhủ mà Thánh Phaolô nói với Timôthê: "Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ xuống trên con". Tương tự như chương V, chương VI lần lượt bàn về những lý do thần học của việc đào tạo trường kỳ, khai triển các chiều kích đa dạng của việc đào tạo ấy, cũng gồm có nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ, xét tới ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo trường kỳ, đề cập tới tuổi tác và điều kiện sống, xác định những thành phần chịu trách nhiệm về việc đào tạo trường kỳ và sau cùng đề nghị thời giờ, hình thức và những phương thế để tổ chức việc đào tạo trường kỳ.

Hai chương V và VI như chúng ta vừa phác hoạ dầu quan trọng cũng chỉ là phần ứng dụng của những phân tích và suy niệm về nền móng. Những phân tích và suy niệm này lại liên hệ và đan kết với nhau một cách chặt chẽ tuy vẫn được chia thành bốn chương.

c) Chương I có thể ví như một bức hoạ đặt người trẻ ứng sinh cũng như người linh mục vào khung cảnh của thời đại, với những yếu tố tiêu cực cũng như tích cực. Nhưng bức hoạ gắn liền với Tin Mừng: không lẩn tránh sự thật phũ phàng, nhưng cũng không kém lạc quan và nhất là dấu chỉ thời đại không phải để nhận xét suông rồi áp dụng vội vàng, nhưng để nhận ra lời mời gọi, trách nhiệm và bổn phận phải cộng tác, phải không ngừng canh tân và thích nghi. Công cuộc "phúc âm hoá mới" đòi phải có "những nhà phúc âm hoá mới". Vì linh mục "được cất nhắc từ giữa loài người", nên linh mục và ứng sinh linh mục vừa phải am tường môi trường nhân sinh, phải bén nhạy trước dấu chỉ của thời đại nhưng vừa phải cậy dựa vào lời hứa của Thiên Chúa trung thành, cùng chia sẻ với Giáo Hôi niềm tin tưởng vững chắc và sâu xa vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.

d) Chương II truy tầm cội nguồn của căn tính linh mục bằng cách nhìn vào chính Chúa Giêsu linh mục, trong tình yêu Chúa Cha và sự thánh hiến của Chúa Thánh Thần, nhìn vào Giáo Hội trong mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, móc nối với Ðức Kitô Ðầu và Mục Tử, hướng đến công cuộc phục vụ Giáo Hội và thế giới. "Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi".

e) Chương III khai triển sâu rộng về đời sống thiêng liêng của linh mục một khi được lấp đầy Thánh Thần : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". - Cũng như người giáo dân và còn hơn người giáo dân, linh mục được mời gọi nên thánh một cách đặc biệt - Phương thức nên thánh của linh mục là nên đồng hình dạng với Ðức Giêsu Kitô Ðầu và Mục Tử và là thực thi đức ái mục vụ - Ðời sống thiêng liêng và thánh thiện ấy phải được biểu lộ trong việc thi hành thừa tác vụ - Sự thánh hiến của linh mục gắn liền với những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng : vâng phục, nghèo khó và trinh khiết - Yếu tố định đoạt của một đời sống thiêng liêng Kitô giáo và hơn nữa một đời sống thiêng liêng linh mục, đó là ý thức mình ở trong một Giáo Hội địa phương và xả thân phục vụ Giáo Hội ấy một cách tận tụy - Tin vào ân sủng của Chúa Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh.

f) Chương IV bàn về ơn gọi linh mục trong mục vụ của Giáo Hội. Mẫu mực của ơn gọi linh mục là cuộc gặp gỡ ban đầu giữa Chúa Giêsu với hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: "Hãy đến mà xem". Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phát xuất từ Thiên Chúa và đều là ân huệ của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội. Ơn gọi bao gồm cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả. Làm sao để cổ võ và nuôi dưỡng các ơn gọi (mẫu gương của Anrê trong Tin Mừng Gioan). Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục: giám mục, linh mục, gia đình, học đường, giáo dân.

Liệt kê sơ lược dàn bài cùng với những đề tài chính trên đây là để chúng ta nhận thức được tầm mức sâu rộng của Tông Huấn. Tầm mức sâu rộng ấy không cho phép chúng ta dừng lại ở những suy nghĩ phiến diện, hời hợt hoặc xé vụn nhưng ngược lại mời gọi chúng ta đương đầu với khó khăn và nỗ lực đi vào những suy niệm và phân tích của Ðức Giáo Hoàng với thái độ chú tâm và với tinh thần Tin Mừng.

3. Hai khó khăn trên không phải là không thể khắc phục nếu chúng ta đánh giá cao và nếu chúng ta ưa chuộng văn kiện quý hoá này. Thật ra, khó khăn đặc biệt của Tông Huấn Pastores dabo vobis là ở chỗ nó được viết ra bằng ngôn ngữ của con tim nên đòi phải được đọc và nghiền ngẫm cũng bằng những rung cảm của con tim. Không giống như thông thường. Tông Huấn về đào tạo linh mục của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ là thành quả góp nhặt từ quá khứ để lại, từ những nghiên cứu và thảo luận của Thượng Hội Ðồng 1990, cũng không chỉ là dùng Quyền Giáo Huấn để đưa ra những chỉ dẫn, khuyên bảo có tính cách giáo thuyết. Hơn thế nữa, ở đây là cả một sự san sẻ những ưu tư, nhận thức và cảm nghiệm sâu xa đã thấm đượm những nhịp đâp của con tim. Người đọc chăm chú có thể lấy làm lạ và ngỡ ngàng tự hỏi: tại sao một Tông Huấn với những đề tài quan trọng và nặng tính chất giáo điều như thế mà lại được diễn đạt một cách say mê và dào dạt kinh nghiệm sống như vậy? Phải chăng chúng ta có quyền coi đây là kiệt tác của Vị Kế Nhiệm Thánh Phêrô thời đại, với biết bao chuyến công du mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, với những tiếp xúc gặp gỡ đậm đà và chân tình cùng các linh mục và giáo dân ở rải rác khắp nơi, với một cái nhìn bao quát và sâu rộng kèm theo mối ưu tư khắc khoải đối với sức sống của Giáo Hội, với những ơn thúc đẩy và soi sáng của một vị Thủ Lãnh Giáo Hội có đời sống nội tâm sâu xa và bén nhạy.

Ngay trong phần dẫn nhập, sau khi đã say sưa kêu gọi người Kitô hữu mạnh mẽ tin tưởng vào lời hứa của Chúa, mặc cho biết bao những khủng hoảng, mặc cho sự xuống cấp, mặc cho tình trạng thiếu hụt linh mục trầm trọng, Ðức Gioan Phaolô II đã bày tỏ nỗi lòng của mình: "Tôi muốn ngỏ lời tâm huyết (le coeur) với mọi tín hữu và từng tín hữu, cách riêng với các linh mục và với tất cả những ai đã dấn thân vào trách nhiệm tế nhị trong lãnh vực đào tạo linh mục. Qua Tông Huấn này, tôi mong mỏi được tiếp cận tất cả các linh mục và mỗi một linh mục, triều hoặc dòng". Trong phần kết luận, ngài còn diễn tả rõ hơn : "Ngài (Ðức Kitô Mục Tử Nhân Lành) yêu cầu những con tim khác cũng phải chung nhịp đập - những con tim linh mục - "Các ngươi hãy cho họ ăn". Như vậy không phải lối suy nghĩ và diễn tả của "người slave" làm cho bản văn ra vòng vo và phức tạp cho bằng những lối nẻo của con tim, lắt léo, uốn khúc, có khi chi li, súc tích# Thừa tác vụ linh mục được gọi là "amoris officium" theo kiểu nói của Thánh Augustinô: "Ðời sống thiêng liêng của linh mục không là gì khác hơn sự đón nhận "chân lý" của thừa tác vụ linh mục, được coi là amoris officium, trong ý thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và con tim, trong những quyết định và những hành động". (cuối số 24).

Con tim có những tỷ lệ ít cần đếm xỉa đến lý trí. Chẳng hạn để giải quyết vấn đề khủng hoảng về căn tính linh mục, chương II nhằm mời gọi linh mục quay về với nguồn cội tột cùng của mình, để đắm mình trong tình yêu của Chúa Cha, để yêu mến nguồn cội cao cả của chính mình: "Ðời sống và thừa tác vụ linh mục là sự nối dài đời sống và hoạt động của chính Ðức Kitô. Căn tính của chúng ta nằm ở đó, cũng như phẩm giá thực sự của chúng ta, nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống" (cuối số 18).

Vấn đề độc thân linh mục cũng được giải quyết vừa mạnh mẽ, cương quyết nhưng cũng vừa nhẹ nhàng và uyển chuyển. Ý thức sáng suốt những chỉ trích và chống đối, không phủ nhận những lỗi phạm, những khó khăn. Tông Huấn chuyển vấn đề sang mặt tích cực, chiêm ngắm một "Ðức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn và độc chiếm giống như Ðức Giêsu Kitô Ðầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội" (số 29, phần giữa), kêu gọi linh mục "đón nhận bậc sống độc thân với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương", xác quyết bậc sống độc thân linh mục là có thể thực hiện một cách trung thành nhờ "cầu xin trong sự kết hiệp với Giáo Hội" và gợi lên "lòng tin cậy và can đảm trong việc tiếp tục tiến bước" (cuối số 29).

Cụ thể, trong việc đào tạo ứng sinh linh mục, bằng ngôn ngữ của con tim. Tông Huấn đòi phải có "sự quan tâm tới du khách, nghĩa là tới con người cụ thể đang dấn thân trong chuyến du hành đào tạo#", "lòng yêu mến đích thực và sự tôn trọng chân thành đối với người ứng sinh đang bước tới chức linh mục trong những chiều kích cá vị của mình". (số 61, phần cuối). Việc đào tạo trường kỳ cũng được đẩy xa tới những ngỏ ngách của con tim như khi đề cập đến tình huynh đệ linh mục ở số 74 phần giữa: "Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai; dầu vậy,#, linh mục có thể và phải dành những ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ nhất. Tình huynh đệ ấy dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ, duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa tuổi trung bình hoặc cao niên cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn..." Cũng về việc đào tạo trường khi, khi cổ võ những trao đổi và gặp gỡ giữa các linh mục với nhau, Tông Huấn ghi nhận: "Họ sẽ nhờ đó mà chứng tỏ tình yêu của mình đối với toàn thể linh mục đoàn và chứng tỏ niềm hăng say của mình trong việc đáp ứng như cầu của Giáo Hội địa phương là nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi". (số 76 phần giữa).

Một vài dẫn chứng trong số muôn vàn dẫn chứng khác thiết tưởng tạm đủ để chúng ta cảm phục con tim tràn đầy sức sống được bộc lộ ra trong Tông Huấn lớn lao của Giáo Hội và nhất là để chúng ta cũng đón nhận và đi vào Tông Huấn bằng chính con tim của chúng ta cùng với niềm say mê và nỗi thao thức của những chi thể trong Nhiệm Thể Giáo Hội có Chúa Kitô là Ðầu, Mục Tử và Tôi Tớ.

III. Một Vài Ðiểm Nổi Bật Và Lan Tỏa Trong Tông Huấn

1. Trước hết, trong mạch văn của cái gọi là ngôn ngữ con tim, chúng ta có thể ghi nhận một đức tính mà Tông Huấn luôn kêu mời mặc dầu từ ngữ chỉ được lặp lại nhiều lần khi đề cập tới chiều kích nhân bản và mục vụ của việc đào tạo, đó là tính bén nhạy (sensibilité). Trong số 72, chương V, Tông Huấn viết: "Linh mục phải làm sao để tính bén nhạy nhân bản của mình được nên phong phú nhờ vào một kinh nghiệm ngày càng rộng lớn hơn và để cho Dân Thiên Chúa có thể nói về mình một cách tương tự như tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đã nói về Ðức Giêsu: Không phải chúng ta có một vị thượng tế bất lực, không cảm thông được những nỗi yếu hèn của chúng ta, trái lại, Ngài đã nếm chịu mọi thử thách, giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15)".

a) Trọn chương I là để khai triển tính bén nhạy đối với môi trường và hoàn cảnh chung quanh : những thách đố của thiên niên kỷ thứ hai. Cần phải nhận thức và nhất là diễn giải tình huống phức tạp hiện nay thì mới trả lời được câu hỏi: "Làm sao để đào tạo các linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện nay, cho thực sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?" (số 10). Một tính bén nhạy như thế cần phải đưa theo Tin Mừng, cần phải được "soi sáng và cũng cố nhờ Chúa Thánh Thần, Ðấng mọi nơi mọi lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin, lòng dũng cảm tươi vui để nối gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự và không bị một ai xét đoán (x. 1 Cr 2.15)" (số 10, gần cuối).

b) Bén nhạy đối với Lời Chúa, đối với truyền thống Giáo Hội, đối với Huấn Quyền (số 26, tr.61).

c) Bén nhạy đối với người nghèo : "Không loại trừ một ai trong việc loan báo và ban phát ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhân, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội..." (số 30, tr. 73)"... giữ mình khỏi mọi thái độ trịch thượng hoặc khỏi việc thi hành một quyền bính nào đó mà không luôn luôn hoặc không chỉ có thể biện minh bằng đức ái mục vụ" (số 60, tr.145). "Các chúng sinh phải tìm kiếm Ðức Kitô... nhất là nơi những người nghèo, những người bé nhỏ, những người yếu đau, những người tội lỗi và những người không tin" (số 45, tr.116).

"Linh mục cần phải có khả năng hiểu biết sâu xa lòng trí con người, trực giác được những khó khăn và những vấn đề, tạo điều kiện dễ dàng cho sự gặp gỡ và đối thoại, đạt được lòng tin cậy, sự cộng tác, phát biểu được những phán đoán lành mạnh và khách quan" (số 43, tr. 109).

"Linh mục cần phải lớn lên trong việc tiếp xúc thường ngày với người khác và trong việc chia sẻ cuộc sống với họ mỗi ngày,... hiểu được những nhu cầu và đón nhận những lời kêu cứu, có thể trực giác những yêu cầu không được phát biểu thành lời..." (số 72, tr. 176).

d) Bén nhạy đối với Giáo Hội, "khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều kích phổ quát của Giáo Hội ấy" (số 31, tr.76), "nhằm giúp xây dựng toàn thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn ấy" (số 31, tr.77).

Tất cả sự bén nhạy nói trên nhờ "mặc lấy những tâm tình của Ðức Kitô", nhờ "nên đồng hình dạng với Ngài", nhờ thông phần vào đức ái mục vụ của Ngài, nhờ hoạt động "nhân danh" và "thay mặt" Ngài.

2. Ba khái niệm luôn được móc nối với nhay là: hiệp thông, tính phổ quát và tư thế ứng trực (communion, universalité, disponibilité).

Ngay trong phần dẫn nhập, Tông Huấn đã nêu bật kinh nghiệm cụ thể của Thượng Hội Ðồng Giám Mục: "kinh nghiệm riêng biệt về sự hiệp thông giữa các giám mục trong tinh thần phổ quát nhờ đó mà cảm thức về Giáo Hội phổ quát cũng như trách nhiệm của các giám mục đối với Giáo Hội phổ quát và đối với sứ vụ của Giáo Hội, được củng cố, trong mối hiệp thông thân ái và thiết thực chung quanh Thánh Phêrô". Từ nhận định về hoàn cảnh Giáo Hội, trong đó có "sự kiện này là càng ngày người ta càng thuộc về Giáo Hội một cách không trọn vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự nở rộ các ơn gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có về căn tính và về thừa tác vụ của mình" (số 7, tr.18). Ðức Gioan Phaolô II đã đề cao tính "tương giao" và tính "hiệp thông" của thừa tác vụ linh mục trong Giáo Hội.

Tính chất thiết yếu "tương giao" ấy là "do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi sâu thẳm Mầu Nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích được hội nhập vào sự hiệp thông với giám mục và với các linh mục khác, để phục vụ Dân Thiên Chúa là Giáo Hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô" (số 12, tr.30).

Do đó, thừa tác vụ được điều phối mang "bản chất cộng đồng" và chỉ có thể được hoàn thành như là "công trình tập thể". Ðời sống thiêng liêng cũng được suy niệm trong chiều hướng hiệp thông ấy: từ việc nên đồng hình dạng với Ðức Kitô Ðầu và Mục tử, đức ái mục vụ cho đến sống các lời hứa vâng phục, khó nghèo, và trinh khiết# Tất cả đều mang chiều kích cộng đồng. Chính vì thế, trong Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, linh mục phải sống với ý thức mình thuộc về Giáo Hội phổ quát qua Giáo Hội địa phương, và phải xả thân phục vụ Giáo Hội một cách tận tụy. Toàn thể Giáo Hội phải chăm lo cho ơn gọi linh mục, vì ơn gọi linh mục là từ trong Giáo Hội và để phục vụ Giáo Hội (chương IV). Hai chương V và VI cũng luôn nêu dẫn chiều kích hiệp thông ấy đối với tiến trình đào tạo : một linh mục đoàn duy nhất, liên kết chặt chẽ với giám mục, gắn bó và kề cận với mọi người.

Ðiểm đặc biệt ở đây là tính hiệp thông luôn gắn liền với lời mời gọi hướng đến Giáo Hội phổ quát : "bởi vì trong nội bộ Giáo Hội, linh mục là con người của sứ vụ và hiệp thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối thoại# Linh mục phải nối kết những quan hệ huynh đệ trước hết với các anh em thuộc các Giáo Hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người thiện chí và một cách đặc biệt với những người nghèo và những người yếu đuối hơn hết cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức, hoặc không diễn đạt ra được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Ðức Kitô mang đến..." (số 18, tr.42 và 43); "bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng tham dự vào những chiều kích hoàn vũ của sứ vụ được Ðức Kitô giao phó cho các Tông Ðồ" (số 32, tr.77); "một não trạng thừa sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú trọng tới những người xa cách nhất và trên hết tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình" (số 32, tr.77). Trong công việc giáo dục và huấn luyện, Tông Huấn cũng khuyến khích sự đóng góp đa dạng cho các giáo phận kề nhau, do những thành phần nam nữ dị biệt...

Tính chất hiệp thông và phổ quát lại dẫn đến một thái độ quan trọng nơi người linh mục : đó là tư tế ứng trực, sẵn sàng để được sai đi bất cứ nơi nào, sẵn sàng chấp nhận vượt ra ngoài biên giới giáo phận, nếu cần luôn tạo thuận lợi cho việc đón tiếp mọi người có nhu cầu, mọi lời kêu cứu. "Ứng sinh linh mục sẽ được giúp đỡ để yêu mến và sống chiều kích thừa sai thiết yếu của Giáo Hội cùng những hoạt động mục vụ đa tạp; họ sẽ được giúp đỡ để trở nên rộng mở và ứng trực sẵn sàng đối với mọi đường lối có thể thực hiện ngày nay nhằm loan báo Tin Mừng... ứng trực, đáp lại Chúa Thánh Thần và đáp lại giám mục, để rồi được sai đi rao giảng Tin Mừng bên kia những biên giới của quốc gia mình" (số 61, tr.147), "liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho mình bị "ăn" do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của đoàn chiên" (số 28, tr.67).

3. Một yếu tố quan trọng cần được ghi nhận để khỏi lạc hướng khi bước vào Tông Huấn, đó là vấn đề đào tạo nhắm đến phẩm chất linh mục hơn là con số linh mục. Nhiều từ ngữ được dùng để diễn tả trọng tâm đó : "Những nhà phúc âm hoá mới", "những linh mục ngang tầm với thời đại", "những linh mục được đào tạo hẳn hoi" (bien formés), "một trình độ đào tạo trí thức ưu tú", "không phải [...] bất cứ những mục tử nào nhưng những mục tử như lòng Ngài mong ước".

Chính vì thế mà Tông Huấn nhận định tình trạng thiếu hụt linh mục cũng như sự giảm sút ơn gọi linh mục với một thái độ khách quan và bình tĩnh và luôn nêu cao trách nhiệm cộng tác vào sự thực hiện lời hứa của Chúa với một niềm tin vững mạnh và can trường. Cũng chính vì thế mà, không như chúng ta có thể lầm tưởng, Tông Huấn không tự giản lược vào những phân tích và nghiên cứu nhằm đưa ra những phương hướng huấn luyện và giáo dục. Tông Huấn đi xa hơn nhiều, với dụng ý đưa linh mục vào trong mầu nhiệm của cuộc sống : "Từ vấn đề căn tính của linh mục, sự chú trọng được hướng đến các vấn đề liên quan tới tiến trình đào tạo linh mục và tới phẩm chất đời sống các linh mục" (Phần Dẫn Nhập, tr.7).

Chương I nhấn mạnh "bản tính con người" của thừa tác viên, tới môi trường nhân sinh, tới những điều kiện và hoàn cảnh của cuộc sống: "Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi linh mục sẽ tiếp tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn của Chúa Kitô. Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống" (số 5, tr.12). Trong dòng liên tục này, Tông Huấn không ngừng lặp đi lặp lại "đời sống linh mục", "đời sống thiêng liêng của linh mục", "cuộc sống của người linh mục và tính triệt để của Tin Mừng", "sống nối gót Ðức Kitô như các Tông Ðồ", Tông Huấn đạt tới đỉnh cao của việc suy niệm về cuộc sống linh mục, đó là chương VI với việc đào tạo truyền kỳ : sống làm sao cho sâu đậm hơn, khơi thắm lại cuộc đời linh mục đã khởi đầu: "Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ xuống nơi con".

Cuộc sống linh mục bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, múc lấy sức mạnh nơi Vị Mục Tử Nhân Lành đã được Cha sai đến trong quyền lực của Chúa Thánh Thần. Ðó là căn tính của linh mục, "là nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống". Toàn bộ Tông Huấn nhằm mục đích nối dài và ứng dung sự sống cội nguồn này. Khởi từ việc mô phỏng Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến ban mạng sống, "nhân danh Ngài, các linh mục tiến dâng nghi lễ cứu độ... các linh mục có trách nhiệm xả thân phục vụ Dân Cha để nuôi dưỡng họ bằng lời của Cha và làm cho họ sống bằng các bí tích của Cha; các linh mục sẽ là những chứng nhân thực sự cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến mạng sống mình như Ðức Kitô đã hiến dâng mạng sống cho đàn em và cho Cha" (số 15, tr.37).

Cuộc sống linh mục chính là tham gia và thông phần vào sức sống của Ðấng là Ðầu của Thân Thể, nên đồng hình dạng với Ngài. Biểu hiện rõ nét nhất của sự tham gia thông phần chính là "đức ái mục vụ", sự trao hiến trọn vẹn chính mình một cách tích cực và tươi vui, như Ðức Kitô Phu Quân đã trao hiến chính Ngài cho Hiền Thê là Giáo Hội. Có thể nói rằng toàn bộ Tông Huấn xoay quanh "đức ái mục vụ" bởi vì đó chính là biểu hiện, là trợ lực, là cội rễ và nguồn mạch của đời sống linh mục: "Việc chuẩn bị cho cuộc sống linh mục nhất thiết bao hàm một nền đào tạo vững chắc về đức ái, nhất là về lòng yêu mến ưu tiên đối với người nghèo..."

Có thể kể thêm "đời sống cầu nguyện" "đời sống bí tích" "sống thinh lặng", "sống cô đơn" v.v... Nói tóm lại, cả Tông Huấn đều trình bày về sự sống, giới thiệu sự sống và dẫn vào sự sống. Sống chức vụ linh mục chớ không phải có chức linh mục. Tương lai và hy vọng của Giáo Hội là ở đó.

Một đôi điều giới thiệu và gợi ý trên đây chẳng qua là nỗ lực khiêm tốn nhằm giúp bạn đọc đỡ nản chí khi mới bắt tay vào Tông Huấn. Chúng tôi chưa dám tự cho mình là nắm vững được nội dung phong phú và trào tràn của văn kiện. Cũng như bạn đọc, chúng tôi còn phải đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm thật nhiều nữa...

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page