Tông Huấn Pastores Dabo Vobis
về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay
của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Chương IV
Hãy Ðến Mà Xem
Ơn Gọi Linh Mục Trong Mục Vụ Của Giáo Hội
Tìm, theo, ở lại
34. "Hãy đến mà xem" (Ga 1,39). Ðức Giêsu đã trả lời cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả như thế, khi hai vị hỏi Ngài ở đâu. Chúng ta tìm thấy nơi câu nói này ý nghĩa của ơn gọi.
Sau đây là cách mà thánh Gioan tác giả Tin Mừng thuật lại ơn gọi của Anrê và Phêrô: "Ngày hôm sau, Gioan lại có mặt ở đó cùng với hai môn đệ của mình. Ðức Giêsu đi ngang qua, Gioan đưa mắt hướng nhìn Ngài và nói: 'Ðây là Chiên Thiên Chúa'. Hai môn đệ nghe nói thế liền đi theo Ðức Giêsu. Ðức Giêsu quay lại và thấy họ theo Ngài. Ngài nói với họ: "Các anh muốn gì?" Họ trả lời: "Rabbi (nghĩa là Thưa Thầy), Thầy ở đâu ?" Ngài nói: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và đã xem thấy nơi Ngài ở và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
"Anrê, em Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe lời Gioan và đã đi theo Ðức Giêsu. Trước hết, Anrê gặp Simon anh mình và nói với anh: 'Chúng tôi đã gặp Ðấng Mêsia' - nghĩa là Ðức Kitô. Anrê dẫn anh đến với Ðức Giêsu. Ðức Giêsu nhìn Simon và nói: 'Anh là Simon, con ông Gioan; anh sẽ được gọi là Kêpha' - nghĩa là Ðá" (Ga 1,35-42).
Trang Tin Mừng này là một trong nhiều trang Sách Thánh mô tả "mầu nhiệm" ơn gọi; trong trường hợp hiện tại, điều được đề cập là mầu nhiệm ơn gọi nơi các Tông Ðồ của Ðức Giêsu. Trang Tin Mừng của Gioan cũng có ý ám chỉ ơn gọi Kitô hữu nói chung, nhưng lại có giá trị mẫu mực cho ơn gọi linh mục. Với tư cách là cộng đoàn các môn đệ của Ðức Giêsu, Giáo Hội được mời gọi gắn chặt cái nhìn của mình vào hoạt cảnh này là hoạt cảnh, một cách nào đó, không ngừng tái diễn trong lịch sử. Giáo Hội được mời gọi đào sâu ý nghĩa nguyên tuyền và ngã vị của lời mời gọi đi theo Ðức Kitô trong thừa tác vụ linh muc, đào sâu mối liên hệ bất khả phân giữa ân sủng của Thiên Chúa với trách nhiệm của con người, mối liên hệ được gồm chứa và được mạc khải trong lời mời mọc mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Tin Mừng: hãy đến và theo Ta (x. Mt 19,21). Giáo Hội được mời gọi cắt nghĩa và mô tả sự năng động đặc thù của ơn gọi, sự phát triển từng cấp và cụ thể theo những giai đoạn sau: tìm Ðức Giêsu, theo Ngài và ở lại với Ngài.
Giáo Hội tìm thấy trong "Tin Mừng về ơn gọi" này mẫu mực, sức mạnh và niềm hăng say cần thiết cho mục vụ của Giáo Hội về ơn gọi, nghĩa là sứ vụ nhắm tới việc chăm lo cho sự nảy sinh, cho sự phân định và cho sự sát cánh các ơn gọi, cách riêng ơn gọi hướng đến chức linh mục. Bởi vì "thiếu hụt linh mục chắc chắn là nỗi buồn của toàn thể Giáo Hội" (92), mục vụ các ơn gọi, nhất là ngày nay, cần phải được khởi xướng với một niềm hăng say mới, mãnh liệt và xác định hơn, do mọi thành phần trong Giáo Hội. Cần phải xác tín rằng nền mục vụ ấy không phải là một yếu tố đệ nhị hoặc phụ tùy, không phải là một thì biệt lập hoặc hạn hữu như thể là đơn thuần một "phần", cho dẫu có quan trọng đến đâu, trong nền phục vụ bao quát của Giáo Hội. Ðúng hơn, theo như các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã lặp lại, đó là một sinh hoạt mật thiết lồng vào trong nền mục vụ chung của toàn thể Giáo Hội (93), một trọng trách cần phải được tháp nhập và phải được đồng hoá trọn vẹn với cái mà người ta thường gọi là "trọng trách đối với các linh hồn" (94), một chiều kích đồng bản chất và thiết yếu với mục vụ của Giáo Hội, cũng giống như với sự sống và sứ vụ của Giáo Hội (95).
Ðúng vậy, chủ đề ơn gọi có cùng bản chất với mục vụ của Giáo Hội và thiết yếu đối với nền mục vụ ấy. Sở dĩ như thế là bởi vì, hiểu theo một nghĩa nào đó, ơn gọi tạo thành hữu thể thâm sâu của Giáo Hội ngay cả trước khi ơn gọi được tác động. Ecclesia, danh xưng của Giáo Hội, chỉ dẫn cho thấy bản chất của Giáo Hội gắn liền một cách sâu rộng với ơn gọi, bởi vì Giáo Hội thật sự là "triệu tập", là tập thể qui tụ những ai được mời gọi: "Cái tập thể qui tụ những người trong niềm tin ngước nhìn Ðức Giêsu, tác giả ơn cứu độ, nguyên lý hiệp nhất và bình an ấy, Thiên Chúa đã triệu tập và đã làm thành Giáo Hội, để cho tập thể này, đối với con mắt mọi người và từng người, trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ" (96).
Chỉ bằng cách khởi đi từ mầu nhiệm Giáo Hội, xét như là mysterium vocationis, người ta mới có thể đọc được một cách thuần túy thần học cái gọi là ơn gọi linh mục và cái gọi là mục vụ liên quan tới ơn gọi ấy.
Giáo Hội và ơn gọi được ban tặng
35. Ơn gọi Kitô hữu nào cũng đặt nền tảng trên sự tuyển chọn nhưng không và khởi xướng trước từ phía Chúa Cha "Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng đủ loại phúc lành thiêng liêng, trên trời, trong Ðức Kitô. Chính bởi đó mà Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Ngài, ngay cả trước khi tạo dựng thế giới, để chúng ta trở nên thánh thiện và vô tì vết dưới con mắt Ngài, trong tình yêu, và, ngay từ trước, đã xác định cho chúng ta được nên dưỡng tử của Ngài nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ðó chính là sở nguyện trong ý định của Ngài" (Ep 1,3-5).
Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phải phát xuất từ Thiên Chúa, đều là ân huệ của Thiên Chúa; thế nhưng không bao giờ ơn gọi Kitô hữu được ban ngoài Giáo Hội và không lệ thuộc vào Giáo Hội. Ơn gọi Kitô hữu luôn luôn ngang qua Giáo Hội và trong Giáo Hội bởi vì, như lời nhắc nhở của Công Ðồng Vaticanô II, "Thiên Chúa đã không muốn cho con người lãnh nhận sự thánh hoá và ơn cứu độ một cách lẻ loi bên ngoài mọi liên hệ hỗ tương; ngược lại, Ngài đã muốn làm cho con người trở thành một dân tộc, một dân tộc nhận biết Ngài theo đúng sự thật và phục vụ Ngài trong thánh thiện" (97).
Chẳng những Giáo Hội đón nhận trong nhà mình tất cả mọi ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội trên lối đường cứu độ của mình, nhưng chính Giáo Hội còn mặc lấy cho mình những đường nét của một mầu nhiệm ơn gọi, phản ảnh sống động và rạng rỡ của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong thực tế, là "dân kết tụ thành một nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (98), Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Cha, Ðấng không ai kêu mời cũng không do ai sai phái (x. Rm 11,33-35), Ðấng mời gọi mọi người thánh hoá danh Ngài và chu toàn ý muốn của Ngài; Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Con, Ðấng được Chúa Cha mời gọi và sai đến để loan báo Nước Thiên Chúa cho mọi người, Ðấng mời gọi mọi người đi theo Ngài. Sau hết Giáo Hội nắm giữ mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, Ðấng thánh hiến cho sứ vụ tất cả những người nam và người nữ mà Chúa Cha kêu gọi nhờ Con Ngài là Ðức Giêsu Kitô.
Tự bản chất là "ơn gọi", Giáo Hội sinh thành các ơn gọi và đồng thời giáo dục các ơn gọi. Giáo Hội làm công việc ấy trong chính thực thể "bí tích" của mình, với tư cách là "dấu chỉ" và là "khí cụ" trong đó ơn gọi Kitô hữu vang vọng và được chu toàn; Giáo Hội làm công việc ấy trong hoạt động của mình, nghĩa là trong việc thi hành thừa tác vụ loan báo Lời Chúa, cử hành các bí tích, phục vụ và làm chứng cho đức ái.
Bởi đó cần phải lưu ý rằng ơn gọi Kitô hữu thoạt tiên ngang một chiều kích Giáo Hội. Ơn gọi không chỉ phát xuất "từ"Giáo Hội và từ vai trò trung gian của Giáo Hội; ơn gọi không chỉ được nhận biết và thực hiện "trong" Giáo Hội; nhưng - trong việc phục vụ cơ bản nhằm đáp đền cho Thiên Chúa - ơn gọi cũng tự bày tỏ một cách thiết yếu như là làm công việc phục vụ "cho" Giáo Hội. Dưới mọi hình thức, ơn gọi Kitô hữu là một hồng ân nhắm mục đích xây dựng Giáo Hội, làm tăng triển Nước Thiên Chúa trên thế giới (99).
Những gì chúng ta nói về mọi ơn gọi Kitô hữu được thể hiện cách riêng trong ơn gọi linh mục. Ơn gọi này, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh được lãnh nhận trong Giáo Hội, là một lời mời gọi đặt mình vào việc phục vụ dân Thiên Chúa với tư cách đặc biệt thuộc về Ðức Giêsu Kitô và nên đồng hình dạng với Ngài, đồng thời bao gồm quyền hành động "nhân danh và thay mặt" Ðấng Ðầu và Mục Tử của Giáo Hội.
Trong nhãn quan ấy, chúng ta hiểu được điều mà các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng viết: "Ơn gọi của mỗi linh mục hiện hữu trong Giáo Hội và cho Giáo Hội: chính nhờ Giáo Hội mà ơn gọi ấy được thể hiện. Từ đó, mọi linh mục lãnh nhận ơn gọi của Chúa, qua trung gian Giáo Hội, như một hồng ân diễm phúc, một ân sủng gratis data (đặc sủng). Giám mục hoặc vị bề trên có thẩm quyền chẳng những có bổn phận duyệt xét, nhưng còn có bổn phận công nhận khả năng thích ứng và ơn gọi của ứng sinh. Một sự can thiệp của Giáo Hội như thế vốn nằm trong ơn gọi hướng đến thừa tác vụ linh mục hiểu theo đúng nghĩa. Ứng sinh của hàng linh mục phải lãnh nhận ơn gọi mà không áp đặt những điều kiện riêng tư của bản thân mình, nhưng lại chấp nhận những tiêu chuẩn và điều kiện do chính Giáo Hội đề ra theo đúng trách nhiệm thuộc về Giáo Hội" (100).
Cuộc đối thoại trong ơn gọi : Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả
36. Lịch sử của mọi ơn gọi linh mục, cũng như đàng khác của mọi ơn gọi Kitô hữu, là lịch sử của một cuộc đối thoại khôn tả giữa Thiên Chúa và con người, giữa tình yêu của Thiên Chúa là Ðấng mời gọi với tự do của con người là kẻ đáp lại Thiên Chúa trong tình yêu. Hai khía cạnh bất khả phân ly ấy của ơn gọi, ân huệ nhưng không của Thiên Chúa và tự do hữu trách của con người, được mô tả một cách rất rõ ràng và hết sức mạnh mẽ trong những lời vắn gọn những vững chắc qua đó thánh Máccô tác giả Tin Mừng trình bày ơn gọi của Nhóm Mười Hai: Ðức Giêsu "leo lên núi và Ngài gọi những kẻ Ngài muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài" (3,13). Một đàng, có sự quyết định tuyệt đối tự do của Ðức Giêsu, đàng khác có việc Nhóm Mười Hai "đến", hay nói cách khác, việc họ "đi theo Ðức Giêsu".
Ðó chính là mẫu mực có giá trị trường tồn, là những dữ kiện bất khả phân ly của mọi ơn gọi: ơn gọi của các ngôn sứ, của các tông đồ, của các linh mục, của các tu sĩ, của các tín hữu giáo dân, của mọi người.
Thế nhưng, yếu tố chiếm hoàn toàn ưu thế và còn là tiên quyết và có tính định đoạt, đó là sự can thiệp tự do và nhưng không của Thiên Chúa, Ðấng mời gọi. Thiên Chúa có sáng kiến mời gọi. Chẳng hạn, đây là kinh nghệm của ngôn sứ Giêrêmia: "Lời Chúa đã ngỏ với tôi như thế này : 'Trước khi ngươi hình thành trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi được đưa vào vùng ánh sáng, Ta đã thánh hiến ngươi; Ta đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân'" (Gr 1,4-5). Thánh Tông Ðồ Phaolô đã trình bày cùng một chân lý ấy, ngài gắn chặt mọi ơn gọi vào sự tuyển chọn từ muôn thuở của Ðức Kitô, sự tuyển chọn đã được thực hiện "trước khi tạo dựng vũ trụ" và "tùy theo sở nguyện của ý định Ngài" (Ep 1,5). Ưu thế tuyệt đối của ân sủng trong ơn gọi được khẳng định một cách rõ rệt nhất trong lời của Ðức Giêsu: "Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt đặt anh em để anh em ra đi và mang lại hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại" (Ga 15,16).
Nếu tính ưu việt của ân sủng là điều được ơn gọi linh mục chứng tỏ một cách không thể bàn cãi, thì quyết định tự do và tối thượng của Thiên Chúa trong việc mời gọi con người lại đòi hỏi phải được tôn trọng một cách tuyệt đối: quyết định ấy không hề có thể bị ép buộc do bất cứ một tham vọng nào của con người, cũng không thể được thay thế bởi bất cứ một quyết định nào của con người. Ơn gọi là điều được ban tặng do ân sủng của Thiên Chúa chứ không bao giờ là một quyền lợi của con người. Chính vì thế, "không bao giờ được coi đời sống linh mục như là một sự thăng tiến thuần túy nhân bản, cũng như không bao giờ được coi sứ vụ của thừa tác viên như là một phương án đơn thuần của con người" (101). Từ đó, cần phải triệt để loại trừ mọi kỳ vọng hoặc cao vọng từ phía những người được kêu gọi (x. Dt 5,4). Trọn vẹn khoảng thiêng liêng trong con tim cần phải được phủ lấp bằng một niềm tri ân đầy thán phục và cảm mến, và bằng một niềm hy vọng không hề chuyển lay, bởi vì các ứng sinh nhận thức rằng nguồn cậy dựa của họ không phải ở nơi sức lực riêng của họ, nhưng chỉ ở nơi sự trung thành vô điều kiện của Thiên Chúa là Ðấng mời gọi.
"Ngài gọi những kẻ Ngài muốn và họ đến với Ngài" (Mc 3,13). Việc họ "đến", ở đây cũng đồng thời là việc họ nối gót "theo" Ðức Giêsu, diễn tả sự đáp trả tự do của Nhóm Mười Hai trước lời mời gọi của Ðấng là Thầy. Trường hợp của Phêrô và Anrê cũng y như vậy: "Ngài nói với họ: 'Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các anh trở nên những ngư phủ chài lưới người". Và lập tức họ đã bỏ lưới mà đi theo Ngài" (Mt 4,19-20). Kinh nghiệm của Giacôbê và Gioan cũng tương tự như thế (x. Mt 19,21-22). Và cứ như thế, mãi mãi, trong ơn gọi, có sự chiếu sáng cùng với nhau của tình yêu nhưng không từ phía Thiên Chúa và của sự vươn lên cao nhất có thể từ phía tự do con người, tự do gắn bó với lời mời gọi của Thiên Chúa và tự do tin cậy nơi Ngài.
Quả thật, ân sủng và tự do không đối chọi nhau. Ngược lại, ân sủng thôi thúc và nâng đỡ tự do nhân linh, giải thoát tự do ấy khỏi ách nô lệ của tội (x. Ga 8,34-36), cứu chữa tự do ấy và nâng cao tự do ấy trong những khả năng cởi mở và đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Nếu như sự khởi xướng hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa Ðấng mời gọi là điều không thể phản bác thì, cũng vậy và hơn nữa, không thể chối bỏ tính nghiêm trọng tột bực trong tự do của con người khi phải đương đầu và đáp trả. Chính vì thế mà đáp lại lời mời "hãy đến và theo Ta" của Ðức Giêsu, người thanh niên giầu có đối chọi bằng sự từ chối, là dấu chỉ - mặc dầu tiêu cực - cho thấy tự do của anh: "nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, vì anh ta có lắm tiền nhiều của" (Mc 10,22).
Do đó, tự do là thiết yếu cho ơn gọi, một sự tự do, trong lời đáp trả tích cực, mặc lấy ý nghĩa của một sự gắn bó bản ngã sâu đậm, với tính cách trao hiến tình yêu hay đúng hơn với tính cách trả nợ cho Ðấng Trao Ban là Thiên Chúa, tác giả của lời mời gọi, với tính cách tận hiến. Ðức Phaolô VI đã nói: "Lời mời gọi đối xứng với lời đáp trả. Chỉ có thể có những ơn gọi tự do, nghĩa là những ơn gọi chấp nhận dâng hiến chính mình một cách hồn nhiên, ý thức, quảng đại, toàn diện... Chúng tôi gọi ơn gọi là những của lễ: và trong cụ thể, đó là đích thực vấn đề. Ngày hôm nay cũng như hôm qua và còn hơn hôm qua, Ðức Kitô vẫn nói bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và xuyên thấu: "Hãy đến". Tự do được đặt trước thử thách cao cả nhất: đúng vậy, đó là tự do trở thành của lễ, tự do dẫn tới sự quảng đại, lòng hy sinh" (102).
Làm thành hạt nhân mật thiết nhất trong lời đáp trả của con người trước Thiên Chúa Ðấng mời gọi, của lễ tự do tìm được mẫu mực không thể sánh ví hay đúng hơn, cội rễ sắc bén của nó trong của lễ rất tự do của Ðức Giêsu Kitô, vị tiên phong của những ai được mời gọi, dâng theo ý muốn của Chúa Cha: "Chính vì thế, khi bước vào thế giới, Ðức Kitô nói: 'Hy sinh và lễ vật Ngài đã chẳng ưng, nhưng Ngài đã tác thành thân thể cho con... Vậy con xin thưa: Này đây, lạy Thiên Chúa, con xin đến để thực hành thánh ý Ngài" (Dt 10,5-7).
Trong sự hiệp thông mật thiết với Ðức Kitô, Ðức Maria Mẹ Ðồng Trinh đã là tạo vật hơn tất cả mọi tạo vật sống trọn vẹn chân lý ơn gọi, bởi vì không một ai đã đáp trả như Ðức Maria bằng một tình yêu cao cả đến thế đối lại tình yêu bao la của Thiên Chúa (103).
37. "Nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, bởi vì anh ta có lắm tiền nhiều của" (Mc 10,22). Người thanh niên giàu có trong Tin Mừng đã không đáp lại lời mời gọi của Ðức Giêsu, nhắc nhở cho chúng ta những trở ngại lớn lao có thể làm bế tắc hoặc ngăn cản sự đáp trả tự do từ phía con người: chẳng những của cải vật chất có thể khép chặt lòng người trước những giá trị của Thần Khí và trước những đòi buộc triệt để của Nước Thiên Chúa, mà ngay cả một số điều kiện xã hội và văn hoá thời đại cũng có thể tạo ra nhiều mối đe dọa và có thể áp đặt những nhãn giới lêch lạc và sai lầm về bản chất thật sự của ơn gọi, làm cho sự đón nhận và cả đến sự thấu hiểu trở nên khó khăn nếu không nói là bất khả thực hiện.
Nhiều người hình dung về Thiên Chúa bằng một ý niệm khái quát và mơ hồ đến độ gần giống với những hình thức tôn giáo phi Thiên Chúa trong đó người ta quan niệm thánh ý Thiên Chúa như là một thứ định mệnh cố định và bất khả tránh né mà con người chỉ có việc thích nghi và cam chịu một cách hoàn toàn thụ động. Nhưng đó không phải là dung nhan Thiên Chúa mà Ðức Giêsu Kitô đã muốn mạc khải cho chúng ta. Thực ra, Thiên Chúa là Cha và, bằng một tình yêu vĩnh cữu cho Ngài khởi xướng trước, Ngài kêu gọi con người và móc nối với con người một cuộc đối thoại kỳ diệu và lâu bền, mời con người chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài với tư cách làm con. Chắc chắn rằng với một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa, con người còn không thể hiểu được chính mình là như thế nào cho đúng với sự thật, bởi vì ơn gọi không thể nào được tri thức và cảm nhận trong giá trị chính hiệu của nó: ơn gọi lúc ấy chỉ có thể được nhận chịu như là một gánh nặng áp đặt và không chịu đựng nổi.
Cũng vậy, một số tư tưởng sai lạc về con người, thường được biện minh bởi những luận chứng mệnh danh là triết lý hay khoa học, một đôi khi dẫn con người đến chỗ quan niêm cuộc hiện hữu của mình và tự do của mình như là hoàn toàn được ấn định và chi phối bởi những yếu tố bên ngoài thuộc cấp trật giáo dục, tâm lý, văn hoá hay xã hội. Trong một số trường hợp, tự do được hiểu bằng những từ ngữ như sự độc lập tuyệt đối, tự coi mình là nguồn cội duy nhất và tối hậu của những lựa chọn cá nhân, tự định nghĩa như là sự khẳng định chính mình với bất cứ giá nào. Nhưng, bằng cách đó, không thể nào hiểu và sống ơn gọi như một cuộc đối thoại tự do bằng tình yêu là cuộc đối thoại nảy sinh từ mối thông hiệp giữa Thiên Chúa với con người và hoàn tất, nơi con người, bằng sự trao hiến chính mình một cách chân thành.
Trong bối cảnh hiện đại, người ta cũng gặp thấy một xu hướng tư duy về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người theo cách thế của chủ nghĩa cá nhân và của chủ nghĩa thân tình, coi lời mời gọi của Thiên Chúa như thể được ngỏ với từng cá nhân một cách trực tiếp, không hề qua trung gian của cộng đoàn, và coi lời mời gọi ấy như thể nhắm đến mục tiêu là một lợi ích, hoặc là ơn cứu độ của từng ứng sinh chớ không phải là sự trao hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa nhằm phục vụ cộng đoàn. Chúng ta cũng còn gặp một mối đe dọa khác thâm sâu hơn, đồng thời tinh vi hơn : mối đe dọa ngăn cản nhận biết và đón mừng chiều kích Giáo Hội được khắc ghi do tự bản chất trong mọi ơn gọi Kitô hữu, đặc biệt trong ơn gọi linh mục. Thật vậy, như Công đồng nhắc nhở, chức linh mục thừa tác đạt được ý nghĩa chính hiệu và thể hiện được chân lý trọn vẹn trong việc phục vụ và trong sự tăng triển của cộng đoàn Kitô hữu và của chức tư tế thuộc về giáo dân (104).
Bối cảnh văn hoá chúng ta vừa gợi lên, mà ảnh hưởng chắc hẳn lan tới các Kitô hữu, đặc biệt tới những người trẻ, giúp hiểu được tầm cỡ của cuộc khủng hoảng chính các ơn gọi linh mục vốn liên can, tự nguồn gốc và trải qua tiến trình phát triển, tới rất nhiều khủng hoàng trầm trọng hơn về đức tin. Các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã minh bạch tuyên bố điều ấy, các ngài công nhận rằng cuộc khủng hoảng các ơn gọi linh mục có những căn rễ sâu xa trong môi trường văn hoá, trong não trạng và trong cách giữ đạo của các Kitô hữu (105).
Bởi đó, điều khẩn thiết là mục vụ về các ơn gọi của Giáo Hội phải dứt khoát và ưu tiên chăm lo lái tập "não trạng Kitô giáo", phát sinh từ đức tin và được đức tin nâng đỡ. Hơn bao giờ hết, công cuộc phúc âm hoá hệ tại chỗ trình bày một cách không nhàm chán khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha Ðấng trong Ðức Giêsu Kitô, kêu gọi mỗi người chúng ta, đồng thời trình bày ý nghĩa chính hiệu của tự do nhân linh, xét như là nguyên lý và là sức mạnh của sự trao hiến chính mình một cách có trách nhiệm. Chỉ bằng cách đó mới có thể thiết lập được những nền tảng cần thiết để cho mọi ơn gọi, kể cả ơn gọi linh mục, có thể được cảm nhận trong chân lý của nó, được quí mến trong vẻ đẹp của nó, và được sống với lòng tận tụy hoàn toàn và với niềm vui sâu xa.
Nội dung của mục vụ các ơn gọi và những phương thế được ứng dụng
38. Ơn gọi chắc chắn là một mầu nhiệm không thể dò thấu bao hàm mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với con người: độc nhất và không thể văn hồi; là mầu nhiệm được truy nhận và cảm nghiệm như một lời mời gọi đón chờ một sự đáp trả đến từ nơi thâm cung của lương tâm, "nơi thánh điện, ở đó con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và ở đó tiếng Chúa được đón nghe" (106). Thế nhưng điều ấy không loại bỏ chiều kích cộng đồng và đặc biệt chiều kích Giáo Hội của ơn gọi; Giáo Hội cũng thực sự hiện diện và hành động trong ơn gọi của mọi linh mục.
Nhằm phục vụ ơn gọi linh mục cũng như hành trình của ơn gọi ấy, nghĩa là sự hình thành, sự phân định và sự sát cánh ơn gọi, Giáo Hội có thể tìm được mẫu gương nơi Anrê, một trong hai môn đệ đầu tiên đã đi theo Ðức Giêsu. Chính Anrê đã thuật lại cho người anh điều đã xảy đến cho mình: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Mêsia (nghĩa là Ðấng Kitô)" (Ga 1,44). Và lời tường thuật cuộc "khám phá" ấy mở lối cho cuộc gặp gỡ: "Và Anrê dẫn anh mình đến với Ðức Giêsu" (Ga 1,42). Không hề có thể hoài nghi về sự đề xướng hoàn toàn tự do và về quyết định tối thượng của Ðức Giêsu chính Ðức Giêsu gọi Simon và đặt cho Simon một tên mới: "Ðức Giêsu nhìn Simon và nói: 'Ngươi là Simon con ông Gioan; ngươi sẽ được gọi là Kêpha' (nghĩa là Ðá)" (Ga 1,42). Thế nhưng Anrê cũng đã góp phần trong sự đề xướng : Anrê đã khuyến khích anh mình đi gặp Ðức Giêsu.
"Và Anrê dẫn anh mình đến với Ðức Giêsu". Chính ở đây, hiểu theo một nghĩa nào đó, chúng ta gặp thấy tâm điểm của mọi nền phục vụ về ơn gọi qua đó Giáo Hội quan tâm đến sự hình thành và đến sự tăng triển của các ơn gọi, bằng cách sử dụng những ân huệ và những trách nhiệm, những đặc sủng và thừa tác vụ đã lãnh nhận từ nơi Ðức Kitô và từ nơi Thần Khí của Ngài. Với tư cách là dân tư tế, ngôn sứ và vương giả, Giáo Hội có trọng trách cổ võ và phục vụ sự hình thành cũng như sự chín muồi của các ơn gọi linh mục, nhờ kinh nguyện và đời sống bí tích, nhờ việc loan báo Lời Chúa và việc giáo dục đức tin, dưới ảnh hưởng và với chứng từ của đức ái.
Trong phẩm vị và trong trách nhiệm làm dân tư tế. Giáo Hội chỉ dẫn cho thấy kinh nghiệm và việc cử hành phụng cụ là những nhịp cốt yếu và tiên khởi của mục vụ các ơn gọi. Quả vậy, được Lời Chúa nuôi dưỡng, kinh nghiệm Kitô giáo tạo nên khoảng không gian lý tưởng để cho mỗi người có thể khám phá ra chân lý của hữu thể mình và căn tính của phương án đời sống, cá vị và duy nhất, mà Chúa Cha tạo tác cho mình. Do đó, điều cần thiết là phải giáo dục các thiếu nhi và thanh niên sao cho họ trung thành với việc cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa; trong thinh lặng và đón nghe, họ sẽ có thể nhận ra được lời mời gọi của Chúa tiến đến chức linh mục và mau mắn quảng đại đi theo Ngài.
Giáo Hội phải đón nhận mỗi ngày lời mời gọi bức bách và khẩn thiết của Ðức Giêsu, Ngài yêu cầu "cầu nguyện với Chủ mùa gặt để Chủ ấy sai thợ đến gặt hái" (Mt 9,38). Tuân theo giới lệnh của Ðức Kitô, trên hết mọi sự, Giáo Hội chu toàn việc khiêm tốn tuyên xưng đức tin: trong khi cầu nguyện cho các ơn gọi vì cảm nhận được sự khẩn cấp của ơn gọi đối với đời sống và sứ vụ của mình, Giáo Hội nhận ra rằng các ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa và, xét theo bản chất, các ơn gọi ấy phải được van xin bằng một sự cầu khẩn liên lỉ và tín thác. Chẳng những từng người nhưng là toàn thể các cộng đoàn Giáo Hội cần phải thực hành việc cầu nguyện vì đó là điểm tựa, là giá đỡ nâng của mọi nền mục vụ các ơn gọi. Không ai còn nghi ngờ về tâm quan trọng của những sáng kiến đặc thù trong việc cầu nguyện, của những thời khắc đặc biệt dành riêng cho yêu cầu ấy, trước hết phải kể đến Ngày thế giới hằng năm dành cho các ơn gọi, và của sự dấn thân một cách minh thị nơi những người và những nhóm nhạy cảm cách riêng với vấn đề các ơn gọi linh mục. Thế nhưng, ngày nay, sự mong chờ những ơn gọi mới trong việc cầu nguyện phải càng ngày càng trở thành một tập quán trường kỳ với sự tham gia một cách rộng rãi của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo và của trọn vẹn thực thể Giáo Hội. Chính nhờ đó mà người ta có thể lặp lại bằng cuộc sống kinh nghiệm của các Tông Ðồ : các ngài đã hiệp nhất với Ðức Maria, trong Phòng Tiệc Ly, và đã cầu nguyện để mong chờ sự tuôn đổ Thần Khí (x. Cv 1,14), Ðấng vẫn không ngừng khơi dậy từ trong toàn dân Thiên Chúa "những linh mục mà thế giới đang cần đến, để phục vụ cho việc cầu nguyện, cho bí tích Thánh Thể và để loan báo Tin Mừng là Ðức Kitô" (107).
Là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội (108), cách riêng của mọi kinh nguyện Kitô Giáo, phụng vụ cũng chiếm giữ một vai trò cần thiết và một ảnh hưởng biệt đãi trong mục vụ các ơn gọi. Thực ra, phụng vụ tạo thành một kinh nghiệm sống động về ân huệ của Thiên Chúa và một trường học đáng kể cho việc đáp trả lời mời gọi của Ngài. Xét theo bản chất, mọi việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành bí tích Thánh Thể, mang lại rất nhiều hiệu quả. Phụng vụ mạc khải cho chúng ta dung nhan đích thực của Thiên Chúa; phụng vụ laà cho chúng ta thông hiệp vào mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là vào giờ mà Ðức Giêsu đã đến trong thế gian và vào giờ mà Ngài đã tự do và tự nguyện bước tới, vì vâng theo tiếng gọi của Chúa Cha (x. Ga 13,1); sau hết, phụng vụ tỏ lộ cho chúng ta khuôn mặt của Giáo Hội, xét như là đoàn dân tư tế và như là cộng đoàn gắn chặt với nhau một cách keo sơn, với sự dị biệt và bổ khuyết lẫn nhau của các đặc sủng và các ơn gọi. Hy lễ cứu chuộc của Ðức Kitô mà Giáo Hội cử hành trong mầu nhiệm, mang lại một giá trị đặc biệt cao quí cho sự khổ đau được cảm nhận bằng cuộc sống trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã mời gọi chúng ta đừng bao giờ quên rằng "nhờ của lễ gồm những khổ đau rất thường tình trong đời sống con người, bệnh nhân Kitô hữu tiến dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, theo gương Ðức Kitô Ðấng đã tự hiến chính mình cho mọi người chúng ta (x. Ga 17,19)" và rằng "của lễ gồm những khổ đau dâng theo ý hướng ấy mang lại ích lợi lớn lao cho sự thăng tiến các ơn gọi" (109).
39. Trong việc thực hành sứ vụ ngôn sứ, Giáo Hội cảm thấy rằng bổn phận không thể né tránh của mình là loan báo và bày tỏ ý nghĩa Kitô Giáo của ơn gọi mà chúng ta có thể gọi là "Tin Mừng về ơn gọi". Giáo Hội cũng nhận thức trong lãnh vực này sự bức xúc được diễn tả qua lời của Thánh Tông Ðồ: "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!" (1Cr 9,16). Trên tất cả, lời khuyến cáo ấy vang vọng cho chúng tôi là những mục tử và, đồng thời với chúng tôi, liên can đến mọi nhà giáo dục trong Giáo Hội. Công việc giảng thuyết và huấn giáo phải luôn làm nổi bật những mối tương quan mật thiết với các ơn gọi: Lời Thiên Chúa mang lại cho các tín hữu ánh sáng cần thiết để nhận thấy cuộc đời là một sự đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa sát cánh với các tín hữu để họ đón nhận, trong đức tin, ân huệ ơn gọi bản thân.
Thế nhưng, mặc dầu quan trọng, tất cả những điều ấy vẫn chưa đủ : cần có một "khoa rao giảng trực tiếp về mầu nhiệm ơn gọi trong Giáo Hội, về giá trị của chức linh mục thừa tác, về sự cần thiết bức bách của chức linh mục thừa tác đối với dân Thiên Chúa" (110). Một nền giáo huấn hữu cơ và mở rộng cho mọi thành phần trong Giáo hội giúp xua tan những nghi hoặc, đánh bại những ý niệm một chiều và sai lệch về thừa tác vụ linh mục, đồng thời mở rộng tâm hồn các tín hữu cho việc mong chờ hồng ân và tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành những ơn gọi mới. Ðã đến lúc phải can đảm đề cập đến đời sống linh mục như là một giá trị vô song và như là một hình thức sống đời sống Kitô hữu rạng rỡ và ưu việt. Các nhà giáo dục và đặc biệt các linh mục đừng ngần ngại đề xuất một cách minh bạch và mạnh mẽ ơn gọi hướng đến chức linh mục như là một sự khả thi thiết thực đối với những người trẻ có tài năng và có đức tính xứng hợp. Làm như vậy không có nghĩa là chi phối và hạn chế tự do của những người trẻ, ngược lại, một sự đề xuất chính xác, được thực hiện đúng lúc, có thể có giá trị định đoạt để rồi khơi dậy nơi những trẻ một sự đáp trả tự do và chính hiệu. Ngoài ra, lịch sử của Giáo Hội và lịch sử của biết bao ơn gọi linh mục, được nở rộ ngay cả vào lúc tuổi thơ, là một chứng cớ hùng hồn cho tính chất quan phòng của việc sống kề cận với linh mục và của việc nghe lời linh mục nói: không những lời nói nhưng còn là sự kề cận, nghĩa là một chứng từ cụ thể, vui tươi, có khả năng làm trổi hiện những vấn nạn và dẫn đến những quyết định dứt khoát.
40. Với tư cách là dân vương giả, Giáo Hội nhận thức mình được bén rễ trong "lề luật của Thần Khí là Ðấng ban sự sống" (Rm 8,2), và được thôi thúc bởi lề luật ấy. Lề luật ấy vốn dĩ thiết yếu là lề luật vương giả của đức ái (x. Gc 2,8) hay lề luật trọn hảo của tự do (x. Gc 1,25). Chính vì thế, Giáo Hội chu toàn sứ vụ của mình khi Giáo Hội dẫn dắt mọi tín hữu khám phá và sống ơn gọi của riêng mình trong tự do và gánh vác ơn gọi ấy cho tới hoàn thành trong đức ái.
Trong công việc giáo dục, với một sự chú tâm biệt đãi, Giáo Hội nhằm khơi dậy nơi các trẻ nhỏ, nơi các thanh thiếu niên niềm khát vọng và ước muốn nối gót Ðức Giêsu Kitô trong mọi sự và một cách kề cận. Công trình giáo dục, mặc dầu liên quan tới cộng đoàn Kitô hữu xét như là cộng đoàn, cần phải đáp ứng cho từng người một: quả vậy, qua lời mời gọi của Ngài, Thiên Chúa đạt thấu lòng mỗi người, và Thần Khí, Ðấng cư ngụ trong lòng mỗi môn đệ (x. 1Ga 3,24), được trao ban cho từng Kitô hữu với những đặc sủng dị biệt và với những biểu hiện riêng rẽ của mình. Như thế mỗi người cần được giúp đỡ để lãnh nhận ân huệ được giao phó cho mình một cách cá nhân, với tư cách một ngôi vị độc nhất và bất khả thay thế, và cần được giúp đỡ để đón nghe những lời mà Thần Khí Thiên Chúa ngỏ với mình.
Trong nhãn quan ấy, mối ưu tư về các ơn gọi hướng đến chức linh mục cũng có thể được diễn đạt bằng một sự đề xuất quyết liệt và thuyết phục trong việc linh hướng. Ðiều cần thiết là phải khám phá lại truyền thống cao cả về việc sát cánh thiêng liêng với từng người, là công việc đã luôn mang lại nhiều hoa trái quý giá trong đời sống Giáo Hội, tiến trình linh hướng này có thể được bổ khuyết, trong những trường hợp nhất định và với những điều kiện chính xác, bằng những hình thức phân tích hay những trợ lực tâm lý, chớ không được thay thế bởi chúng (111). Các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên phải được mời gọi khám phá và đánh giá ơn được ban là việc linh hướng, truy tầm ơn ấy, thực tập ơn ấy, yêu cầu ơn ấy, bằng một thái độ tha thiết và tin cậy, nơi các vị giáo dục mình trong đức tin. Về phía mình, các linh mục phải là những người tiên phong cống hiến thời giờ và năng lực cho công trình giáo dục và trợ giúp thiêng liêng cho từng cá nhân : ước chi các linh mục đừng bao giờ hối tiếc vì đã coi thường hoặc đã để vuột mất sang hàng thứ yếu nhiều điều khác, ngay cả những điều đẹp đẽ và hữu ích, nếu như đó là sự việc không thể tránh khỏi để vẫn tiếp tục tin vào thừa tác vụ của mình là cộng tác với Thần Khí hầu soi sáng và hướng dẫn những ai được mời gọi.
Cùng đích của việc giáo dục người Kitô hữu là đạt tới, dưới ảnh hưởng của Thần Khí, "sự trưởng thành viên mãn của Ðức Kitô" (Ep 4,13). Ðiều này được thể hiện khi, nhờ noi theo và chia sẻ đức ái của Chúa Kitô, người ta làm cho trọn vẹn cuộc sống mình trở nên việc phục vụ tình yêu (x. Ga 13,14-15), bằng cách tiến dâng lên Thiên Chúa sự thờ phượng thiêng liêng đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1) và bằng cách xả thân cho anh em. Công việc phục vụ tình yêu là hướng đi cơ bản của mọi ơn gọi, và điều ấy nghiệm đúng một cách hết sức đặc biệt cho ơn gọi linh mục vì, quả thực, linh mục được mời gọi lặp lại bằng cuộc sống phương cách triệt để nhất có thể để thực thi đức ái mục vụ của Chúa Giêsu, nghĩa là tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành "hiến mạng sống mình vì đoàn chiên" (Ga 10,11).
Chính vì thế, một nền phục vụ chính hiệu về ơn gọi sẽ không bao giờ nản chí trong việc giáo dục các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên về khát vọng dấn thân, về ý nghĩa của việc phục vụ nhưng không, về giá trị của hy sinh, về sự trao hiến chính mình một cách vô điều kiện. Phong trào tự nguyện, ngày càng thu hút đối với nhiều người trẻ, là một phong trào rất hữu ích, với điều kiện đó là tự nguyện do động lực Tin Mừng, giúp giáo dục những người trẻ biết phân định các nhu cầu, giúp họ mỗi ngày một sống tận tụy và trung thành, giúp họ sẵn sàng đón nhận khi cần kíp cuộc dấn thân dứt khoát trong đời tận hiến, lấy việc cầu nguyện làm lương thực. Tự nguyện như thế sẽ đỡ nâng cách chắc chắn hơn một cuộc đời dấn thân vô vị lợi và nhưng không, và sẽ làm cho người nào đeo đuổi cuộc đời ấy trở nên bén nhạy hơn đối với tiếng nói của Thiên Chúa là Ðấng có thể mời gọi người ấy tiến đến chức linh mục. Ngược lại với người thanh niên giàu có, kẻ nhẹ dạ vẫn có thể đón nhận lời mời gọi tràn đầy tình yêu mà Ðức Giêsu ngỏ với mình (x. Mc 10,21); người ấy sẽ có thể đón nhận lời mời gọi bởi vì của cải (biens) của người ấy đã hệ tại chỗ trao hiến chính mình cho ngươờ khác và ở chỗ "thiệt mất" chính mình.
Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục
41. Ơn gọi linh mục là một ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ ấy chắc chắn tạo thành một thiện ích lớn lao đối với người đầu tiên được trao gởi. Thế những đó cũng là một ân huệ dành cho toàn thể Giáo Hội, một thiện ích cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Bởi đó, Giáo Hội được mời gọi bảo tồn ân huệ ấy, quí chuộng và yêu mến ân huệ ấy : Giáo Hội có trách nhiệm đối với sự hình thành và đối với sự chính muồi của các ơn gọi linh mục. Do vậy, chủ thể chủ động, chiến hữu tiên phong của mục vụ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội xét như là cộng đoàn, trong mọi hình thái biểu hiện khác biệt của cộng đoàn ấy: từ Giáo Hội phổ quát đến Giáo Hội địa phương và, một cách loại suy, từ Giáo Hội địa phương đến giáo xứ và đến mọi thành phần Dân Chúa.
Ðiều bức bách hơn bao giờ hết, nhất là ngày nay, là phải lan truyền và củng cố niềm xác tín rằng tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không loại trừ một ai, đều nhận được ân sủng và đều mang lấy trách nhiệm chăm lo cho các ơn gọi. Công Ðồng Vaticanô II đã tỏ ra minh bạch hết mực khi quả quyết rằng "bổn phận tạo thuận lợi cho sự gia tăng các ơn gọi linh mục là của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, cộng đoàn Kitô hữu được giao phó phải thanh thỏa bổn phận ấy trước tiên bằng một đời sống trọn vẹn là Kitô hữu" (112). Chỉ trên nền tảng niềm xác tín ấy mà mục vụ các ơn gọi mới có thể biểu lộ dung nhan thật sự Giáo Hội của mình và mới có thể phát huy một hoạt động hoà diệu, bằng cách cũng sử dụng những bộ phận đặc biệt và những phương thế thích ứng với sự hiệp thông và với tinh thần đồng trách nhiệm.
Trách nhiệm đầu tiên của nền mục vụ hướng về các ơn gọi linh mục, đó là trách nhiệm của giám mục (113), giám mục được mời gọi đích thân đảm nhận trách nhiệm ấy, ngay cả khi ngài có thể và phải cổ võ những nguồn cộng tác đa dạng. Giám mục là một người cha và là một người bạn đối với linh mục đoàn của mình, trách nhiệm của ngài là phải "duy trì cho liên tục" đặc sủng và thừa tác vụ linh mục bằng cách kết hiệp thêm những lực lượng mới nhờ việc đặt tay. Giám mục phải chăm lo sao cho chiều kích các ơn gọi luôn luôn hiện diện trong toàn bộ mục vụ bình thường, hơn nữa sao cho chiều kích ấy được hội nhập và được đồng hoá với mục vụ. Chính giám mục có trách nhiệm cổ võ và điều hợp các sáng kiến dị biệt ấy để mưu ích cho các ơn gọi (114).
Giám mục biết rằng, trên tất cả, ngài có thể cậy dựa vào sự cộng tác của linh mục đoàn. Tất cả các linh mục, cùng với ngài, đều liên đới với nhau, và đồng trách nhiệm với nhau trong việc mưu cầu và trong việc thăng tiến các ơn gọi linh mục. Thật vậy, như lời quả quyết của Công Ðồng, "với tư cách là những nhà giáo dục đức tin, các linh mục có trách nhiệm chăm lo sao cho mỗi Kitô hữu, trong Chúa Thánh Thần, đạt tới sự triển nở ơn gọi của bản thân mình" (115). Và đó là "một bổn phận bắt nguồn từ chính sứ vụ linh mục, nhờ đó linh mục thông chia mối ưu tư của toàn thể Giáo Hội là làm sao, mãi mãi nơi trần thế này, tránh khỏi nạn thiếu hụt những người thợ trong đoàn dân Thiên Chúa" (116). Ðời sống các linh mục, lòng tận tụy tuyệt đối của các ngài dành cho dân Thiên Chúa, việc các ngài làm chứng bằng cách phục vụ Chúa và Giáo Hội của Chúa trong tình yêu - đây là một chứng từ in hằn dấu thánh giá, thánh giá được chấp nhận trong hi vọng và trong niềm vui phục sinh - sự hoà hợp huynh đệ của các ngài và nhiệt tâm của các ngài trong việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới, đó là những yếu tố đệ nhất và có tính thuyết phục nhất cho thấy các ơn gọi quà thật phong nhiêu (117).
Một trách nhiệm rất đặc thù được giao phó cho gia đình Kitô giáo bởi vì, nhờ vào bí tích hôn nhân, gia đình thông phần một cách đặc biệt và độc đáo vào sứ vụ giáo dục của Giáo Hội là Mẹ và là Thầy. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã viết, "quả thực như một 'Giáo Hội tại gia' (Lumen gentium, GH, số 11), gia đình đã luôn cống hiến và còn tiếp tục công shiến những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các ơn gọi. Bởi vì, ngày nay, hình ảnh gia đình Kitô giáo đang gặp hiểm hoạ, cần phải dành một tầm quan trọng lớn lao cho mục vụ gia đình. Bằng cách ấy, một khi quảng đại đón nhận ơn sự sống con người, chính các gia đình sẽ trở thành "như thể chủng viện đầu tiên" (Optatam totius, ÐT số 2), trong đó các trẻ em sẽ có thể đạt được, ngay từ buổi đầu, ý thức về đạo đức, về việc cầu nguyện và về tình yêu đối với Giáo Hội" (118). Trong dòng liên tục và hoà điệu với hoạt động của các cha mẹ và của gia đình, phải kể đến học đường, là bộ phận được mời gọi sống căn tính "cộng đoàn giáo dục" của mình với một phương án văn hoá có khả năng chiếu tỏa ánh sáng trên chiều kích của ơn gọi, xét như là giá trị tự nhiên và cơ bản của con người. Trong chiều hướng ấy, bằng một đức tin nhất thiết được điểm tô bằng tinh thần Kitô giáo (hoặc nhờ tôn giáo được hiện diện cách minh nhiên nơi học đường Nhà Nước, theo những sự sắp đặt của quốc gia, hoặc nhất là trong trường hợp học đường công giáo), học đường có thể ghi tạc "vào trong tâm trí các trẻ nhỏ và các thanh thiếu niên niềm khát vọng thi hành ý Thiên Chúa trong bậc sống thích hợp nhất cho từng người, mà không bao giờ loại trừ ơn gọi tiến đến thừa tác vụ linh mục" (119).
Các tín hữu giáo dân, cách riêng các giáo lý viên, những nhà giảng dạy, những nhà giáo dục, những linh động viên của mục vụ cho người trẻ, mỗi người tùy theo tài nguyên và khả năng riêng của mình, đóng một vai trò rất quan trọng trong mục vụ ơn gọi linh mục. Thực vậy, càng đào sâu ý nghĩa của ơn gọi và của sứ vụ mình trong Giáo Hội, họ càng có thể nhận ra giá trị và tính chất bất khả thay thế của ơn gọi và của sứ vụ linh mục.
Trong khuôn khổ các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, những nhóm suy tư về ơn gọi cần phải được quí chuộng và khích lệ. Các thành viên trong những nhóm ấy cống hiến phần đóng góp bằng cầu nguyện và bằng những khổ đau của mình cho những ơn gọi linh mục và tu sĩ, đồng thời nâng đỡ các ơn gọi ấy về tinh thần cũng như vật chất.
Ở đây cũng cần phải nhắc tới nhiều nhóm, nhiều phong trào và hiệp hội tín hữu giáo dân mà Chúa Thánh Thần khởi động và làm tăng trưởng trong Giáo Hội, trong tương quan với sự kiện người Kitô hữu hiện diện một cách thừa sai hơn trong thế giới. Các tổ chức giáo dân ấy được nhìn nhận là một môi trường đặc biệt giàu ơn gọi tận hiến, như là những địa điểm thực sự thích ứng với việc đề xuất và tăng triển ơn gọi. Thật vậy, nhiều người trẻ, trong chính khuôn khổ ấy và nhờ vào những hiệp hội ấy, đã nghe được lời Chúa mời gọi đi theo Ngài trên con đường linh mục thừa tác và đáp trả với một lòng quảng đại đáng khích lệ (120). Bởi vậy, vần phải đề cao những tổ chức ấy để, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và nhờ các tổ chức ấy nên lớn mạnh, các tổ chức ấy đóng góp phần riêng của mình vào sự phát triển mục vụ các ơn gọi.
Những tiến kêu nài vang vọng từ nhiều phía, những thành phần khác nhau trong Giáo Hội dấn thân cho mục vụ ơn gọi, tất cả hoạt động cho ơn gọi ấy càng trở nên hữu hiệu nếu như càng làm cho cộng đoàn Giáo Hội, khởi từ giáo xứ, hiểu được rằng tuyệt đối không thể đem vấn đề ơn gọi linh mục ủy thác cho một số "chuyên gia để rồi trút bỏ trách nhiệm trên họ" (các linh mục nói chung và các linh mục phụ trách chủng viện nói riêng), nhưng là "một vấn đề sống còn nằm ngay giữa lòng Giáo Hội" (121), và rằng cần phải đem đặt vấn đề ấy vào trong tâm điểm tình yêu của mọi Kitô hữu đối với Giáo Hội.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - -
(92) Diễn văn bế mạc Thượng Hội Ðồng (27/10/1990), số 5: 1.c.
(93) X. Propositio 6.
(94) X. Propositio 13.
(95) X. Propositio 4.
(96) Công Ðồng Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 9.
(97) Như trên.
(98) Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 23 : CCL 3/A, 105.
(99) X. Công Ðồng Vat. II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân, Apostolicam actuositatem, TÐ, số 3.
(100) Propositio 5.
(101) Kinh Truyền Tin (3/12/1989), số 2: Insegnamenti XII/2 (1989), tr.1417.
(102) Sứ điệp ngày quốc tế thứ V cầu cho ơn gọi linh mục (19/4/1968) : Insegnamenti VI (1968), tr.134-135.
(103) X. Propositio 5.
(104) X. Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 10; sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.
(105) X. Propositio 13.
(106) Công Ðồng Vat. II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et spes, MV, số 16.
(107) Sách lễ Roma, Lời Nguyện đầu lễ trong thánh lễ cầu cho ơn thiên triệu linh mục.
(108) X. Công Ðồng Vat. II, Hiến Chế về Phụng Vụ, Sacrosanctum Concilium, PV, số 10.
(109) Propositio 15.
(110) Như trên.
(111) X. CIC, Giáo Luật khoản 220 : không ai [#] được phép xâm phạm quyền bảo tồn bí mật của bất cứ ai; x. thêm khoản 642.
(112) Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, LM, số 2.
(113) X. Công Ðồng Vat.II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong Giáo hội, Christus Dominus, GM, số 15.
(114) X. Công Ðồng Vat. II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ÐT, số 2.
(115) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 6.
(116) Như trên, số 11.
(117) X. Công Ðồng Vat. II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ÐT, số 2.
(118) Propositio 14.
(119) Propositio 15.
(120) X. propositio 16.
(121) Sứ Ðiệp Ngày Quốc Tế Thứ XXII cầu cho ơn gọi linh mục (13/4/1985), số 1 : AAS 77 (1985), tr. 982.