Tông Huấn Pastores Dabo Vobis

về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay

của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 


 

Chương II

Ngài Ðã Xức Dầu Thánh Hiến Tôi Và Ðã Sai Tôi Ði

Bản Chất Và Sứ Vụ Của Chức Linh Mục Thừa Tác

 

Hướng nhìn chức linh mục

11. "Mọi người trong hội đường đều đưa mắt hướng nhìn Ngài" (Lc 4,20). Ðiều mà Thánh Luca tác giả Tin Mừng nói về những người đã có mặt trong hội đường Nagiarét ngày Sabbát hôm ấy và đã nghe Ðức Giêsu giải thích đoạn sách ngôn sứ Isaia sau khi Ngài đọc lên hôm ấy có thể đem áp dụng cho tất cả mọi Kitô hữu bởi vì tất cả đều được mời gọi công nhận lời sấm đã được thực hiện trọn vẹn nơi Ðức Giêsu Nagiarét : "Lúc ấy, Ngài cất tiếng nói : 'Hôm nay đoạn Sách Thánh này được ứng nghiệm cho anh em là những kẻ đang nghe' (Lc 4,24). Ðoạn Sách Thánh ấy nói rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi để tôi mang Tin Mừng đến cho người nghèo. Ngài đã sai tôi đi rao giảng sự giải thoát cho người bị giam cầm, sự sáng mắt cho kẻ mù loà, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19;x. Is 62,1-2). Ðức Giêsu tự giới thiệu mình như là đầy tràn Chúa Thánh Thần, "được xức dầu hiến thánh", "để mang Tin Mừng đến cho người nghèo" : Ngài là Ðấng Mêsia, một Ðấng Mêsia vừa là tư tế, ngôn sứ và là vua.

Người Kitô hữu phải đưa mắt đức tin và mắt tình yêu hướng nhìn dung mạo nói trên của Ðức Kitô. Chính dưới ánh sáng của sự "chiêm ngắm" này mà các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã suy tư về vấn đề đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay. Không thể nào giải quyết vấn nạn ấy nếu trước đó không suy nghĩ về cứu cánh của tiến trình đào tạo: cứu cánh, đó chính là chức linh mục thừa tác và, nói chính xác hơn, là chức linh mục thừa tác với tư cách tham gia vào chính chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo Hội. Nhận thức về bản chất và về sứ vụ của chức linh mục thừa tác là điều tất yếu phải đi trước, đồng thời là đường lối vững chắc nhất và là động cơ mãnh liệt nhất để có thể phát triển hoạt động mục vụ trong Giáo Hội, nhằm thăng tiến và phân định các ơn gọi linh mục cũng như đào tạo những người được mời gọi tiến đến thừa tác vụ được phong ban.

Như thế, truy tầm một sự hiểu biết chính xác và sâu rộng về bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác là đường lối phải tuân theo - đây quả thực là đường lối của Thượng Hội Ðồng - để có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng về căn tính linh mục, như Tôi đã phát biểu trong bài diễn văn bế mạc Thượng Hội Ðồng: "Cuộc khủng hoảng này đã xuất hiện trong những năm kế tiếp ngay sau Công đồng. Sở dĩ nó phát sinh là vì giáo thuyết của Huấn Quyền trong Công đồng đã bị giải thích sai lầm, có khi đã bị cố tình giải thích lệch lạc. Chắc chắn đây là một trong những nguyên nhân đã gây ra nhiều vụ hồi tục mà Giáo Hội lúc bấy giờ phải gánh chịu; những vụ hồi tục đã ảnh hưởng trầm trọng đến công việc mục vụ, đến các ơn gọi linh mục và cách riêng đến các ơn gọi thừa sai. Thượng Hội Ðồng Giám Mục năm 1990, bằng cách khám phá lại toàn vẹn chiều sâu của chức linh mục nhờ vào biết bao bài tham luận đã được đón nghe trong Phòng Hội Aula này, như thể đã đến để mang lại niềm hy vọng sau nhiều vụ hồi tục xót xa ấy. Những bài tham luận ấy chứng tỏ chúng tôi ý thức như thế nào về mối dây hữu thể loại biệt nối kết người linh mục với Chúa Kitô là Linh Mục Tối Cao và là Mục Tử Nhân Lành. Căn tính linh mục ấy phải làm nền để tạo bản chất cho nền đào tạo cần được tiến hành nhắm đến chức linh mục và còn nhắm đến trọn vẹn cuộc đời linh mục. Mục đích chính xác của Thượng Hội Ðồng 1990 là như thế" (18).

Nhằm mục đích ấy, Thượng Hội Ðồng xét rằng cần phải nhắc lại một cách tổng hợp tất cả những gì liên quan đến các nền tảng của bản chất và sứ vụ linh mục thừa tác, bản chất và sứ vụ mà đức tin Giáo Hội đã thừa nhận trong suốt dòng lịch sử qua nhiều thế hệ và Công đồng Vaticanô II đã trình bày cho con người thời đại chúng ta (19).

Trong Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ

12. Các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã viết: "căn tính linh mục, cũng như bất cứ căn tính nào của người Kitô hữu, bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi" (20) là Mầu nhiệm được mạc khải, được chuyển đạt cho loài người nơi Chúa Kitô, đồng thời trong Ngài và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, tạo thành Giáo Hội với tư cách là "hạt mầm và khởi đầu" của Nước Trời (21). Tông Huấn Christifideles Laici tổng hợp giáo huấn của Công đồng bằng cách trình bày Giáo Hội như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ; "Giáo Hội là mầu nhiệm bởi vì tình yêu và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ân huệ tuyệt đối nhưng không, được ban cho tất cả những ai sinh ra bởi nước và Thần Khí (x. Ga 3,5), được kêu mời sống chính sự hiệp thông của Thiên Chúa, biểu lộ và lan truyền sự hiệp thông ấy trong lịch sử (sứ vụ) " (22).

Chính trong lòng Giáo Hội xét như là mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa Ba Ngôi trong nỗi day dứt thi hành sứ vụ mà mọi căn tính Kitô hữu được mạc khải và đồng thời căn tính loại biệt của linh mục và của thừa tác vụ linh mục cũng được mạc khải. Quả vậy, linh mục, nhờ vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức thánh, được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với Ngài, Ðấng là Ðầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới (23).

Nhờ đó, người ta hiểu được tính chất thiết yếu "tương giao" của căn tính linh mục : do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi thẳm sâu mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích được hội nhập vào sự hiệp thông với Giám mục và với các linh mục khác (24), để phục vụ Dân Thiên Chúa là Giáo Hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô, đúng như lời cầu nguyện của Ngài : "Lạy Cha rất thánh, xin Cha gìn giữ chúng con trong danh Cha mà Cha đã ban cho Con để chúng nên một như chúng ta... Lạy Cha, cũng như Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng ở trong chúng ta, để cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17,11-21).

Bởi thế, không thể tìm xác định bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác ở bên ngoài nhiệm hệ đa tạp và phong phú gồm những tương quan bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và nối dài trong sự hiệp thông với Giáo Hội xét như là dấu chỉ và khí cụ, trong Chúa Kitô, của sự nối kết giữa loài người với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại (25). Từ đó, nghiên cứu Giáo Hội về phương diện hiệp thông chính là việc làm có tính định đoạt để có thể nắm vững căn tính linh mục, phẩm giá riêng biệt của linh mục, ơn gọi và sứ vụ trong Dân Thiên Chúa và trong thế giới. Chính vì vậy, qui chiếu về Giáo Hội là điều cần thiết, ngay cả khi đó không phải là điều tiên quyết trong định nghĩa về căn tính linh mục. Xét như là mầu nhiệm, Giáo Hội thiết yếu gắn liền với Chúa Giêsu Kitô; thực ra, Giáo Hội chính là sự viên mãn, là Thân Thể và là Hiền Thê của Ngài. Giáo Hội là "dấu chỉ", là "kỷ vật" sống động nói lên sự hiện diện liên lỉ của Ngài và nói lên hoạt động của Ngài giữa chúng ta và cho chúng ta. Người linh mục tìm gặp trọn vẹn sự thật về căn tính của mình trong sự kiện mình tham dự một cách loại biệt vào Ðức Kitô và nối tiếp chính Ðức Kitô, vị tư tế Tối Cao và độc nhất của Giao Ước mới : linh mục là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa Kitô linh mục. Là biểu hiện "tính chất mới mẻ" tuyệt đối của Ngài trong lịch sử cứu độ, chức tư tế của Chúa Kitô chính là cội nguồn độc nhất và là bản mẫu bất khả thay thế của chức tư tế Kitô hữu và cách riêng của chức tư tế linh mục. Bởi đó, qui chiếu về Chúa Kitô là chìa khoá tuyệt đối cần thiết để có thể thấu hiểu thực tại linh mục.

Mối liên hệ cơ bản với Ðức Kitô là Ðầu và Mục Tử

13. Ðức Giêsu Kitô đã biểu lộ nơi chính Ngài dung mại trọn hảo và vĩnh viễn của chức tư tế thời Tân Ước (26) : Ngài đã mạc khải dung mạo ấy bằng toàn thể đời sống trần thế của Ngài, nhưng trên tất cả bằng chính biến cố trung tâm là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Như tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái đã viết, là con người như chúng ta và đồng thời là người Con độc nhất của Thiên Chúa, Ðức Giêsu, ngay trong chính hữu thể của Ngài, là vị trung gian hoàn hảo giữa Chúa Cha và nhân loại (x. Dt 8-9), vị trung gian cho chúng ta được trực tiếp đến gần Thiên Chúa, nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần: "Thiên Chúa đã sai đến tâm hồn chúng ta Thần Khí của Con Ngài, Thần Khí ấy kêu lên : Abba, lạy Cha !" (Gl 4,6; x. Rm. 8,15).

Ðức Giêsu hoàn thành nhiệm vụ trung gian bằng việc hiến dâng chính mình trên Thập Giá, nhờ đó, một lần thay cho muôn lần, Ngài mở lối vào thánh điện trên trời và vào nhà của Chúa Cha (x. Dt 9,24-28). Sánh với Ðức Giêsu, Môisê và tất cả các vị "trung gian" thời Cựu Ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài - các vua, các tư tế và các ngôn sứ - chỉ xuất hiện như là "hình ảnh" và là "bóng mờ của những điều thiện bảo sẽ tới", chớ không như là "chính sự biểu hiện của các thực tại" (x. Dt 10,1).

Ðức Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành mà các ngôn sứ đã báo trước (x. Ed 34), Vị Mục Tử biết chiên mình từng con một, thí mạng sống mình cho chiên và quy tụ hết mọi con chiên lại thành một đàn duy nhất với một chủ chăn duy nhất (x. Ga 10,11-16). Ngài là vị mục tử, không phải đến "để được phục vụ nhưng để phục vụ" (Mt 20,28), với cử chỉ rửa chân ngày vượt qua (x. Ga 13,11-20), đã để lại cho những người thân thích của Ngài mẫu gương phục vụ mà họ có trách nhiệm thực thi lẫn cho nhau, và đã tự nguyện hiến dâng chính mình làm cho chiên vô tội chịu sát tế để cứu chuộc chúng ta (x. Ga 1,36; Kh 5,6-12).

Nhờ hy lễ Thập Giá tiến dâng một lần và mãi mãi. Ðức Giêsu thông ban cho tất cả các môn đệ của Ngài phẩm giá và sứ vụ làm linh mục của Giao Ước mới và vĩnh cửu. Như thế là ứng nghiệm lời Thiên Chúa hứa với Ít-raen: "Ta sẽ coi các ngươi như một vương quốc tư tế, một dân tộc thánh thiện" (Xh 19,6). Thánh Phêrô viết : Chính toàn dân Giao Ước Mới được làm thành một "toà nhà thiêng liêng", "một hàng tư tế thánh thiện, nhằm dâng tiến những hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô" (1 Pr 2,5). Những người đã lãnh nhận Phép Rửa là những viên đá sống động xây nên toà nhà thiêng liêng, nối kết với Thân Thể Chúa Kitô, "là đá tảng sống động... được tuyển chọn và thật quý giá bên cạnh Thiên Chúa" (1 Pr 2,4). Dân tư tế mới, là Giáo Hội, chẳng những có được nơi Chúa Kitô hình ảnh riêng biệt và chính hiệu của mình mà còn lãnh nhận từ nơi Ngài sự tham dự thiết thực trên bình diện hữu thể vào chức tư tế vĩnh cửu và độc nhất của Ngài, chức tư tế mà Dân Chúa phải thích ứng trọn cả đời mình.

14. Nhằm phục vụ chức tư tế phổ quát của Giao Ước Mới, Ðức Giêsu, trong sứ vụ trần thế, đã mời gọi nhiều môn đệ đến với Ngài; với quyền bính dành cho một sứ vụ loại biệt, Ngài kêu gọi và thiết lập Nhóm Mười Hai "để làm bạn đồng hành với Ngài và để sai họ đi rao giảng, kèm theo quyền xua trừ ma quỉ" (Mc 3,14-15).

Như thế, ngay từ trong giai đoạn thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 16,18) và sau đó, một cách viên mãn, khi đã chết và sống lại (x. Mt 28,16-20; Ga 20,21), Ðức Giêsu ban cho Phêrô và Nhóm Mười Hai những quyền hành hoàn toàn loại biệt đối với cộng đoàn tương lai và nhằm mục đích rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Sau khi đã mời gọi họ theo Ngài. Ngài giữ họ bên cạnh Ngài và Ngài sống với họ, dùng gương sáng và lời nói thông truyền cho họ sứ điệp cứu độ sau cùng, Ngài sai họ đến với mọi người. Ðể cho sứ vụ ấy được hoàn thành, Ðức Giêsu ban cho các Tông Ðồ, cùng với sức mạnh do sự tuôn đổ Thánh Thần sau biến cố Phục Sinh, cũng một quyền bính Mêsia mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha, quyền bính đã được ban cho Ngài, quyền bính đã được biểu lộ cách viên mãn qua sự Phục Sinh của Ngài: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Ta. Vậy, các con hãy ra đi, hãy chiêu tập môn đệ từ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Ta đã chỉ thị. Này đây Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20).

Bằng cách ấy, Ðức Giêsu thiết lập một mối liên hệ sít sao giữa thừa tác vụ được ban cho các Tông Ðồ với chính sứ vụ riêng của mình : "Ai đón nhận các con là đón nhận Ta và ai đón nhận Ta là đón nhận Ðấng đã sai Ta" (Mt 10,40); "Ai nghe các con là nghe Ta, ai loại bỏ các con là loại bỏ Ta và ai loại bỏ Ta là loại bỏ Ðấng đã sai Ta" (Lc 10,16). Hơn thế nữa, trong Tin Mừng thứ tư, dưới ánh sáng của biến cố vượt qua gồm cái chết và sự phục sinh, Ðức Giêsu quả quyết một cách hết sức mạnh mẽ và minh bạch: "Như Cha đã sai Ta, cũng vậy Ta sai các con" (Ga 20,21; x.13,20; 17,18). Cũng như Ðức Giêsu nắm giữ một sứ vụ đến trực tiếp từ Thiên Chúa và làm cho chính quyền bính của Thiên Chúa trở nên hiện diện (x. Mt 7,29; 21,23; Mc 1,27; 11,28; Lc 20,2;24,19), cũng vậy các Tông Ðồ nắm giữ một sứ vụ đến từ Chúa Giêsu. Cũng như "Con không thể tự mình làm điều gì" (Ga 5,19) đến nỗi giáo thuyết của Ngài không phài là của riêng Ngài nhưng là giáo thuyết của Ðấng đã sai Ngài (x. Ga 7,16), cũng vậy, Ðức Giêsu nói với các Tông Ðồ: "Ngoài Ta các con không thể làm được gì" (Ga 15,5): sứ vụ của các Tông Ðồ thì không phải là sứ vụ riêng của các ngài nhưng là chính sứ vụ của Chúa Giêsu. Sở dĩ có thể hoàn thành sứ vụ ấy thì không phải do sức lực của con người nhưng chỉ nhờ vào "ơn ban" của Chúa Kitô và của Thần Khí Ngài, nhờ vào ơn bí tích: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha, các con cầm buộc tội ai, tội người ấy bị cầm buộc" (Ga 20,22-23). Vì thế, không phải vì cậy dựa vào một công nghiệp riêng tư nào nhưng chỉ vì thông phần một cách nhưng không vào ân sủng của Chúa Kitô mà các Tông Ðồ, trong lịch sử, cho đến thời cùng tận, đeo đuổi sứ vụ cứu độ của chính Ðức Kitô vì lợi ích cho loài người.

Dấu chỉ và điều kiện tiên quyết để cho sứ vụ ấy được chính hiệu và sai nở, đó là sự hiệp nhất giữa các Tông Ðồ với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, giữa các Tông Ðồ với Chúa Cha, như đã được nêu dẫn trong lời nguyện tư tế của Chúa, là tổng hợp của sứ vụ Ngài (x. Ga 17,20-23).

15. Ðến lượt các ngài, như đã được Chúa thiết lập, các Tông Ðồ sẽ dần dà làm trọn sứ vụ của các ngài bằng cách kêu mời, dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tựu trung đồng qui với nhau, những người khác, làm giám mục, làm linh mục và làm phó tế, để hoàn thành sứ vụ đã lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã sai các ngài đến với mọi người thuộc mọi thời đại.

Tân Ước nhất loại ghi chú rằng Thần Khí của chính Ðức Kitô đã đưa dẫn vào trong thừa tác vụ những con người được chọn giữa các anh em. Với cử chỉ đặt tay (x. Cv 6,6; 1Tm 4,14; 5,22; 2Tm 1,6) là cử chỉ chuyển ban ơn Thần Khí, những con người ấy được mời gọi và được trang bị để tiếp nối cùng một thừa tác vụ hoà giải, chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa và giảng dạy (x. Cv 20,28; 1Pr 5,2).

Như vậy, các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Ðức Kitô, vị Mục Tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Ngài và bằng cách làm sao cho mình như thể được Ngài xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình. Như thư thứ nhất của thánh Phêrô đã viết một cách rõ ràng và chính xác : "Với các vị niên trưởng giữa anh em, tôi, cũng thuộc hàng niên trưởng như các vị ấy, là chứng nhân về những nỗi thống khổ của Ðức Kitô, là kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được mạc khải, tôi có lời khuyên nhủ các vị ấy. Hãy chăn dắt đàn chiên Thiên Chúa đã được giao phó cho anh em, hãy chăm lo cho chúng, không phải vì miễn cưỡng nhưng một cách sẵn lòng, thể theo ý Thiên Chúa; không phải vì lợi nhuận ô trọc nhưng vì lòng nhiệt thành; không phải bằng cách làm vua làm chúa trên những kẻ được ban cho anh em làm phần cơ nghiệp nhưng bằng cách trở nên mẫu mực cho đàn chiên. Và khi Vị Thủ Lãnh các mục tử xuất hiện, anh em sẽ lãnh nhận triều thiên vinh quang không bao giờ tàn úa" (1 Pr 5,1-4).

Trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, như những dấu chỉ bí tích, các linh mục đại diện cho Chúa Giêsu Kitô là Ðầu và Mục Tử, các linh mục công bố Lời Chúa một cách chính danh, các linh mục lặp lại những cử chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ, nhất là qua các bí tích Rửa Tội, Thống Hối và Thánh Thể, các linh mục đem sự chăm sóc đầy tình thương của Ngài, sự chăm sóc đến nỗi trao hiến trọn vẹn chính mình của Ngài, ra thi thố cho đoàn chiên mà các linh mục qui tụ lại làm một và dẫn đến Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Nói tóm lại, các linh mục hiện hữu và hoạt động để loan báo Tin Mừng cho thế giới và để xây dựng Giáo Hội nhân danh đích thân Chúa Kitô là Ðầu và Mục Tử (27).

Chính bằng thể thức kiểu mẫu và loại biệt trên đây mà các thừa tác viên được cắt đặt tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô. Nhờ việc xức dầu trong bí tích Truyền Chức Thánh, Chúa Thánh Thần làm cho họ nên đồng hình dạng, bằng một tước hiệu mới và loại biệt, với Ðức Giêsu Kitô là Ðầu và Mục Tử, Chúa Thánh Thần làm cho họ nên thích ứng tự bên trong và thôi thúc họ bằng đức ái mục vụ của Ngài, và trong Giáo Hội, Chúa Thánh Thần làm cho họ trở thành những người tôi tớ có phẩm chất để họ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật và để họ làm cho đời sống Kitô hữu của mọi người đã rửa tội được viên mãn.

Sự thật về linh mục phát xuất từ Lời Chúa, nghĩa là từ chính Ðức Giêsu Kitô, và từ kế hoạch của Ngài liên quan tới sự cấu thành Giáo Hội, sự thật ấy đã được hát lên bằng một bài ca tạ ơn vui mừng của phụng vụ trong kinh Tiền Tụng ngày lễ Dầu: "Nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, Cha đã đặt Con Một Cha làm Tư Tế của Giao Ước Mới vĩnh cửu; Cha đã muốn cho chức tư tế duy nhất của Ngài luôn sống động trong Giáo Hội. Chính Ngài là Ðức Kitô, là Ðấng ban cho toàn dân được cứu chuộc phẩm vị làm tư tế vương giả; chính Ngài tuyển chọn trong tình yêu của Ngài đối với đàn em, những người sẽ được đặt tay và sẽ thông phần vào thừa tác vụ của Ngài# Nhân danh Ngài, các linh mục tiến dâng hy lễ cứu độ duy nhất nơi bàn tiệc vượt qua : các linh mục có trách nhiệm xả thân phục vụ Dân Cha để nuôi dưỡng họ bằng Lời của Cha và làm cho họ sống bằng các bí tích của Cha; các linh mục sẽ là những chứng nhân thực sự cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến mạng sống mình như Ðức Kitô đã hiến dâng mạng sống cho đàn em và cho Cha".

Phục vụ Giáo Hội và Thế giới

16. Mối liên hệ cơ bản của linh mục là mối liên hệ nối kết linh mục với Ðức Giêsu Kitô là Ðầu và Mục Tử : thực ra, bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, linh mục tham dự vào sự "thánh hiến" hoặc "xức dầu" và vào "sứ vụ" của Ðức Kitô (x. Lc 4,18-20). Nhưng mối liên hệ ấy lại được mật thiết gắn liền với mối liên hệ nối kết linh mục với Giáo Hội. Ở đây không phải là những mối liên hệ chỉ đơn thuần chồng chất lên nhau : chính những mối liên hệ ấy được nối kết mật thiết với nhau bằng một thứ nội nhập hỗ tương. Sự qui chiếu về Giáo Hội được hàm chứa trong cùng một quan hệ duy nhất giữa linh mục với Chúa Kitô, theo nghĩa là chính việc linh mục đại diện cho Chúa Kitô bằng "sự đại diện hiểu theo nghĩa bí tích" đặt nền tảng và tạo sức sống cho quan hệ giữa linh mục và Giáo Hội.

Trong chiều hướng ấy, các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã viết: "Với tư cách đại diện cho Chúa Kitô là Ðầu, Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội, linh mục chẳng những được đặt vào trong Giáo Hội nhưng còn là đối diện với Giáo Hội. Chức linh mục cũng như đồng thời Lời Chúa và các dấu chỉ bí tích mà linh mục là người phục vụ đều thuộc về những yếu tố tác thành Giáo Hội. Thừa tác vụ của linh mục hoàn toàn là để phục vụ Giáo Hội nhằm nâng cao việc thực thi chức tư tế cộng đồng của toàn thể Dân Thiên Chúa; thừa tác vụ ấy chẳng những được sắp đặt cho Giáo Hội địa phương nhưng còn cho Giáo Hội hoàn vũ (x. Presbyterorum ordinis , LM, số 10), trong sự hiệp thông với Giám mục, với Thánh Phêrô và dưới quyền của thánh Phêrô. Nhờ chức linh mục của Giám mục, chức linh mục bậc hai được tháp vào cơ cấu tông truyền của Giáo Hội. Bởi đó, cũng như các Tông Ðồ, linh mục giữ nhiệm vụ làm sứ giả của Ðức Kitô (x. 2Cr 5,20). Ðó chính là nền tảng cho tính chất thừa sai của chức linh mục" (28).

Như thế, thừa tác vụ được phong ban cùng khai sinh với Giáo Hội; dầu là của giám mục hay của các linh mục trong sự qui chiếu và trong sự hiệp thông với các giám mục, thừa tác vụ ấy có mối liên hệ đặc biệt với thừa tác vụ của các Tông Ðồ buổi đầu, từ đó thừa tác vụ ấy thực sự đóng vai trò kế nhiệm, mặc dầu, so với thừa tác vụ của các Tông Ðồ, thừa tác vụ ấy mặc những hình thái hiện sinh khác biệt.

Bởi đó, không được coi chức linh mục được thụ phong như là đến trước Giáo Hội : chức linh mục ấy hoàn toàn là để phục vụ chính Giáo Hội; cũng không được quan niệm chức linh mục ấy là đến sau cộng đoàn Giáo Hội, như thế có thể hiểu Giáo Hội đã được thành lập mà không cần chức linh mục ấy.

Quan hệ giữa linh mục với Ðức Giêsu Kitô và, trong Ngài, với Giáo Hội được hàm chứa trong chính hữu thể của linh mục, do bởi đã được thánh hiến và đã được xức dầu trong bí tích, và được hàm chứa trong hành động của linh mục, nghĩa là trong sứ vụ hay trong thừa tác vụ của linh mục. Một cách đặc biệt, "linh mục thừa tác là tôi tớ của Ðức Kitô hiện diện trong Giáo Hội xét như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. Do sự kiện linh mục thông phần vào việc "xức dầu" và vào "sứ vụ" của Ðức Kitô, linh mục có khả năng nối dài kinh nghiệm, lời nói, hy lễ và hoạt động cứu độ của Ngài trong Giáo Hội. Linh mục bởi đó là tôi tớ của Giáo Hội xét như là mầu nhiệm, bởi vì linh mục thực thi những dấu chỉ Giáo Hội và bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh. Linh mục là tôi tớ của Giáo Hội xét như là hiệp thông, bởi vì - trong sự hiệp nhất với giám mục và mối liên kết chặt chẽ với linh mục đoàn - linh mục xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn Giáo Hội trong sự hoà điệu của nhiều ơn gọi, nhiều đặc sủng và nhiều hình thức phục vụ khác nhau; cuối cùng, linh mục là tôi tớ của Giáo Hội xét như là sứ vụ, bởi vì linh mục làm cho cộng đoàn trở thành cộng đoàn loan báo và làm chứng về Tin Mừng" (29).

Do đó, trong chính hữu thể và trong sứ vụ bí tích của mình, linh mục đến trong cơ cấu Giáo Hội để làm dấu chỉ cho tính ưu việt tuyệt đối và cho tính nhưng không của ân sủng được ban cho Giáo Hội nhờ Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ chức linh mục thừa tác. Giáo Hội ý thức trong đức tin rằng Giáo Hội không hiện hữu tự mình nhưng là nhờ ân sủng của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Các Tông Ðồ và những người kế nhiệm các ngài, với tư cách là những người nắm giữ quyền bính đến từ Ðức Kitô là Ðầu và Mục Tử, do bởi thừa tác vụ của mình, được sắp đặt đối diện với Giáo Hội, như là sự nối dài hữu hình và là dấu chỉ bí tích của Ðức Kitô, thay cho chính Ngài trước mặt Giáo Hội và thế giới, như là cội nguồn cứu độ trường tồn và luôn mãi mới mẻ, "Ngài, Ðấng cứu độ Thân Thể" (Ep 5,23).

17. Thừa tác vụ được phong ban, do tự bản chất, chỉ có thể được hoàn thành trong mức độ mà linh mục hiệp nhất với Chúa Kitô bằng sự hội nhập hiểu theo nghĩa bí tích vào trong hàng ngũ linh mục và bởi đó trong mức độ mà linh mục hiệp thông với giám mục về phương diện phẩm trật. Tự căn rễ, thừa tác vụ được phong ban mang "bản chất cộng đồng" và chỉ có thể được hoàn thành như là "công trình thập thể" (30). Công đồng đã diễn tả rất nhiều về bản chất hiệp thông ấy của chức linh mục, đã lần lượt nghiên cứu các quan hệ giữa linh mục với giám mục của mình, với các linh mục khác và với giáo dân (31). Thừa tác vụ linh mục trước hết là sự hiệp thông, sự hợp tác thiết yếu và có trách nhiệm vào thừa tác vụ của giám mục, trong việc chăm lo cho Giáo Hội hoàn vũ và cho Giáo Hội đặc thù và, cùng với giám mục, làm thành một linh mục đoàn duy nhất trong khi phục vụ Giáo Hội ấy.

Mỗi một linh mục, là triều hoặc dòng, được liên kết nên một với các thành phần khác thuộc linh mục đoàn, tùy theo bí tích Truyền Chức Thánh, bằng những mối liên hệ riêng biệt về đức ái tông đồ, về thừa tác vụ và về tình huynh đệ. Thực vậy, tất cả các linh mục triều hoặc dòng đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Ðức Kitô là Ðầu và Mục Tử, "cùng nhằm một mục đích : xây dựng Thân Thể Ðức Kitô; nhất là vào thời đại chúng ta, công việc ấy đòi hỏi những nhiệm vụ đa dạng và những thích nghi mới", và thừa tác vụ được nên phong phú trải qua các thời đại nhờ vào những đặc sủng luôn mới mẻ (32).

Sau hết, bởi vì dung mạo của mình cũng như sự dẫn thân của mình không phải là để thay thế nhưng đúng hơn để nâng cao chức tư tế lãnh nhận từ Bí Tích Rửa tội của toàn thể Dân Thiên Chúa và để hướng dẫn chức tư tế ấy đến chỗ thể hiện trọn vẹn trong Giáo Hội, các linh mục sống trong một tương quan tích cực và xây dựng đối với người giáo dân. Các linh mục phục vụ cho đức tin, cho niềm trông cậy và cho đức ái của họ. Các linh mục công nhận những điều ấy và, với tư cách là anh em và là bạn hữu, các linh mục bảo tồn phẩm giá cho những người làm con Thiên Chúa và giúp họ thực thi trọn vẹn vai trò loại biệt của họ trong khuôn khổ sứ vụ của Giáo Hội (33).

Chức tư tế thừa tác được phong ban nhờ bí tích Truyền Chức Thánh và chức tư tế cộng đồng hay "vương giả" của các tín hữu, mặc dầu khác biệt với nhau chẳng những về cấp trật nhưng còn về yếu tính (34), vẫn liên quan với nhau và lệ thuộc lẫn nhau; cả hai - dưới những hình thức khác nhau - đều bắt nguồn từ chức tư tế duy nhất của Ðức Kitô. Thực ra, chức tư tế thừa tác tự nó không là dấu chỉ cho một cấp độ thánh thiện cao hơn so với chức tư tế cộng đồng của các tín hữu; nhưng, do bởi chức tư tế thừa tác, các linh mục đã lãnh nhận từ Chúa Kitô, bởi Chúa Thánh Thần, một ân huệ loại biệt, hầu có thể giúp Dân Thiên Chúa thực thi một cách trung thành và trọn vẹn chức tư tế cộng đồng được ban cho họ (35).

18. Như Công Ðồng ghi nhận, "ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị cho các linh mục không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng đi vào một số vụ cứu độ có tầm cỡ phổ quát, "cho đến tận cùng bờ cõi trái đất"; thật ra bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích phổ quát của sứ vụ được Ðức Kitô giao phó cho các Tông Ðồ" (36). Do bởi chính bản chất của thừa tác vụ, các linh mục cần phải được thầm nhuần và thôi thúc bởi một tinh thần thừa sai sâu xa và bởi "tinh thần công giáo thực sự sẽ giúp các linh mục quen vượt khỏi những ranh giới của riêng giáo phận mình, quốc gia mình và lễ chế mình để rồi đáp ứng nhu cầu của Giáo Hội toàn cầu, sẵn sàng tận đáy lòng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất" (37).

Ngoài ra, một cách đặc biệt, bởi vì trong nội bộ Giáo Hội, linh mục là con người của hiệp thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối thoại. Bén rễ sâu xa trong sự thật và trong đức ái của Chúa Kitô, được thôi thúc bởi ước vọng và sự cần thiết nội tại phải loan báo ơn cứu độ cho mọi người, linh mục được mời gọi nối kết với mọi người những mối quan hệ huynh đệ và phục vụ, cùng nhau truy tầm chân lý bằng cách làm việc để thăng tiến công bằng và hoà bình. Linh mục phải nối kết những quan hệ huynh đệ trước hết với các anh em thuộc các Giáo Hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người thiện chí, và một cách đặc biệt, với những người nghèo và những người yếu đuối hơn hết, cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức hoặc không diễn đạt ra được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Ðức Kitô mang đến, theo lời và theo gương Ðức Giêsu như Ngài đã nói : "Không phải những người khỏe mạnh cần thấy thuốc nhưng là những người đau yếu... Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người có tội" (Mc 2,17).

Ngày nay, một cách đặc biệt, trách nhiệm mục vụ mà ưu tiên là 'công cuộc phúc âm hoá mới' là trách nhiệm của toàn thể Dân Chúa và đòi hỏi một nhiệt tình mới, những phương pháp mới và một ngôn ngữ mới dành cho việc loan báo và làm chứng về Tin Mừng. Ðòi buộc các linh mục phải triệt để và hoàn toàn đắm mình trong mầu nhiệm Chúa Kitô và phải có khả năng thể hiện một lối sống mục vụ mới, đánh dấu bằng một sự hiệp thông sâu xa với Ðức Giáo Hoàng, với các Giám mục và giữa các linh mục với nhau, và bằng một sự hợp tác sai hoa sai trái với giáo dân, tôn trọng và thăng tiến các vai trò khác nhau, các đặc sủng và các thừa tác vụ giữa lòng cộng đoàn Giáo Hội (38).

"Hôm nay, lời Sách Thánh này ứng nghiệm cho anh em là những kẻ đang nghe" (Lc 4,21). Chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa những lời ấy của Chúa Giêsu dưới ánh sáng của chức linh mục thừa tác mà chúng ta đã trình bày về bản chất và sứ vụ. Cái "hôm nay" mà Ðức Giêsu đề cập, bởi vì nằm trong "thời gian viên mãn" và xác định ý nghĩa cho thời gian viên mãn - là thời gian cứu độ đã hoàn thành và dứt khoát - cái "hôm nay" ấy ám chỉ thời gian của Giáo Hội. Sự thánh thiện và sứ vụ của Ðức Kitô, như được diễn tả bằng những lời sau đây : "Thần Khí Chúa# đã xức dầu thánh hiến tôi, để tôi mang Tin Mừng đến cho người nghèo", chính là nguồn cội sống động từ đó nẩy mầm sự hiến thánh và sứ vụ của Giáo Hội, "sự viên mãn" của Ðức Kitô (x. Ep 1,23); được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, hết mọi Kitô hữu đã lãnh nhận sự tuôn đổ Thần Khí Chúa, Ðấng thánh hiến họ để tạo thành một đền thờ thiêng liêng và một hàng tư tế thánh thiện. Thần Khí sai họ đi công bố những kỳ công đã được thực hiện do Ðấng đã kêu gọi họ từ bóng đêm sang ánh sáng diệu vợi của Ngài (x. 1 Pr 2,4-10). Linh mục thông phần vào sự thánh hiến và vào sứ vụ của Ðức Kitô bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, nghĩa là bằng bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích đã biến đổi linh mục, ngay trong chính hữu thể của mình, nên đồng hình dạng với Ðức Giêsu Kitô Ðầu và Mục Tử; linh mục tham dự vào sứ vụ "loan báo Tin Mừng cho người nghèo" nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô.

Trong sứ điệp chung kết, các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã cô đọng trong một công thức vắn gọn nhưng giàu ý nghĩa tất cả những gì là "sự thật" hay đúng hơn "mầu nhiệm" và "ơn huệ" của chức linh mục thừa tác được phát biểu như sau: "Nguồn cội tột cùng của căn tính chúng ta ở trong tình yêu của Chúa Cha. Hiểu theo nghĩa bí tích, chúng ta được kết hợp làm một với Chúa Con mà Cha đã sai đến, là Thượng Tế và là Mục Tử Nhân Lành, bằng chức tư tế thừa tác trong quyền lực của Chúa Thánh Thần. Ðời sống và thừa tác vụ linh mục là sự nối dài đời sống và hoạt động của chính Ðức Kitô. Căn tính của chúng ta nằm ở đó, cũng như phẩm giá thực sự của chúng ta, nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống" (39).

- - - - - - - - - - - - - - - - - -

(18) Diễn văn bế mạc của Thượng hội Ðồng (27/10/1990), số 4 : 1.c. ; x. Thư gửi các linh mục nhân ngày Thứ Năm Tuần Thánh 1991 (10/3/91): Osservatore Romano, 15/3/1991.

(19) X. Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, GH; Sắc lệnh về Thừa tác vụ và đời sống linh mục Optatam totius, LM; Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo. Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (6/1/1970) : 1.c, tr 321-384; Thượng Hội Ðồng Giám Mục, phiên họp khoáng đại thường kỳ II, 1971.

(20) Propositio 7.

(21) CÐ Vat.II, Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, GH số 5.

(22) Tông huấn hậu Thượng Hội Ðồng Christifideles laici (30/12/1988), số 8 : AAS 81 (1989), tr.405; X. Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Phiên họp khoáng đại ngoại thường II, 1985.

(23) X. Propositio 7.

(24) X. Công Ðồng Vat, II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 7-8.

(25) X. Công Ðồng Vat. II, Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 1.

(26) X. Propositio 7.

(27) X. Như trên.

(28) Propositio 7.

(29) Thượng Hội Ðồng Giám Mục, phiên họp khoáng đại thường kỳ VIII, Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay - "Instrumentum loboris", số 16; x. Propositio 7.

(30) Kinh Truyền Tin (25/2/1990) : Osservatore Romano, 26-27/2/1990.

(31) X. Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 7-9.

(32) Như trên số 8; x. Propositio 7.

(33) X. Công Ðồng Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM số 9.

(34) Công Ðồng Vat. II, Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 10.

(35) X. Propositio 7.

(36) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 10.

(37) Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ÐT, số 20.

(38) X. Propositio 12.

(39) Sứ điệp của các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng gởi Dân Chúa (28/10/1990), III : 1.c.

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page