Tông Huấn Pastores Dabo Vobis
về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay
của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Chương I
Ðược Cất Nhắc Từ Giữa Loài Người
Việc Ðào Tạo Linh Mục Trước Những Thách Ðố Mới
Vào Cuối Thiên Niên Kỷ Thứ Hai
Linh mục và thời đại
5. "Mọi thương tế được cất nhắc từ giữa loài người đều được đặt lên để can thiệp cho loài người trong những mối tương quan giữa lời người với Thiên Chúa" (Dt 5,1).
Thư gửi tín hữu Do Thái khẳng định rõ ràng "bản tính con người" nơi thừa tác viên của Thiên Chúa : từ loài người mà đến và phục vụ loài người, noi gương Chúa Giêsu Kitô, "Ðấng đã phải chịu thử thách về mọi mặt, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi" (Dt 4,15).
Thiên Chúa lúc nào cũng kêu gọi các linh mục của Ngài giữa những môi trường nhân sinh và môi trường Giáo Hội nhất định, các linh mục không thể không mang dấu vết của những môi trường ấy và chính trong những môi trường ấy mà họ được sai đến để phục vụ Tin Mừng Chúa Kitô.
Chính vì vậy, Thượng Hội Ðồng đã đem đặt lại vấn đề linh mục trong bối cảnh hiện đại của xã hội và của Giáo Hội. Thượng Hội Ðồng cũng đã mở ngỏ vấn đề cho những viễn tượng của thiên niên kỷ thứ ba, như cách phát biểu vấn đề cho thấy : "Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay".
Chắc hẳn luôn luôn có "một diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục : thực vậy, không kém gì linh mục hôm nay, linh mục ngày mai sẽ phải nên giống Chúa Kitô. Trong cuộc sống trần thế. Ðức Giêsu đã tỏ bày nơi chính Ngài khuôn mặt xác định của linh mục, đã thể hiện chức linh mục thừa tác mà các Tông Ðồ là những người đầu tiên được nhận lãnh; chức linh mục ấy tự yếu tính phải nối tiếp, phải trải dài không ngừng trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong chiều hướng ấy, người linh mục thiên niên kỷ thứ ba sẽ là người nối tiếp các linh mục trong những thiên niên kỷ trước đã đóng góp vào sức sống của Giáo Hội. Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi linh mục sẽ tiếp tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn của Chúa Kitô" (9). Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải "thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống.. Chính vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng hợp nhất những mong chờ của nhân loại" (10).
Vì phải thích ứng ý nghĩa đích thực trường tồn của chức linh mục với những đòi hỏi và những đặc điểm của thời buổi hiện tại, các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã tìm cách giải đáp một số vấn nạn trước mắt : đâu là những vấn đề và đồng thời đâu là những động cơ tích cực mà bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội hiện nay khơi dậy nơi những trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên đang cần phải làm cho dự phóng sống đời linh mục được chính nuồi trong toàn bộ cuộc sống của mình ? Thời đại chúng ta gây những khó khăn nào và cung cấp những khả năng mới mẻ nào cho việc thi hành một thừa tác vụ linh mục phù hợp với ơn bí tích đã lãnh nhận và với đòi buộc phải có một đời sống thiêng liêng thích đáng ?
Giờ đây, Tôi lặp lại một số yếu tố do việc phân tích tình huống mà các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng đã khai triển. Vì có quá nhiều bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội hiện đại trong những quốc gia khác nhau, Tôi chỉ nêu dẫn những hiện tượng sâu xa nhất và phổ cập nhất, đặc biệt những hiện tượng liên quan tới các vấn đề giáo dục và tới việc đào tạo linh mục.
Tin Mừng hôm nay : những triển vọng và những trở ngại
6. Nhiều yếu tố dường như cổ võ nơi con người hôm nay một ý thức sắc bén hơn về phẩm giá nhân vị và về một sự mở ngỏ mới đối với những giá trị tôn giáo, đối với Tin Mừng và đối với thừa tác vụ linh mục.
Mặc dầu những mâu thuẫn chồng chất, chúng ta gặp thấy trong xã hội một niềm khao khát công bằng và hòa bình lan rộng hơn và mãnh liệt hơn, một cảm thức sắc bén hơn về việc quản trị lành mạnh công trình tạo dựng và về sự tôn trọng thiên nhiên, một sự nghiên cứu rộng mở hơn về chân lý và về sự bảo vệ nhân phẩm; nơi nhiều tập thể dâ n cứ thế giới, người ta ghi nhận một sự dấn thân ngày càng tăng nhằm xây dựng tình liên đới giữa các quốc gia sao cho cụ thể hơn và nhằm tạo một trật tự mới cho hành tinh chúng ta trong sự tôn trọng tự do và công bằng.
Trong khi tiềm lực năng lượng mà khoa học và kỹ thuật cung cấp đang trên đà phát triển, trong khi thông tin và văn hoá ngày càng lan rộng, người ta cũng nhận thấy trổi hiện lên một yêu cầu mới về luân lý, nghĩa là một sự truy tầm ý nghĩa và bởi đó truy tầm nấc thang khách quan cho các giá trị để nhờ đó điều hoà những triển vọng và những giới hạn của tiến bộ.
Trong lãnh vực thuần túy tôn giáo và thuần túy Kitô giáo, không còn phải đương đầu với những thành kiến ý thức hệ và những từ khước có tính bạo động trước đề nghị về những giá trị tinh thần và tôn giáo nữa, và nơi nhiều miền trên thế giới xuất hiện những triển vọng phúc âm hoá và những triển vọng tái lập đời sống Giáo Hội thật mới mẻ và thật bất ngờ. Người ta ghi nhận một sự phổ cập ngày càng tăng trong việc hiểu biết Kinh Thánh, một sức sống và một mãnh lực lan rộng nơi nhiều Giáo Hội trẻ với sự dấn thân càng lúc càng hệ trọng vào việc bảo vệ và nâng cao các giá trị con người và sự sống con người, người ta còn nêu dẫn một chứng từ đạo tuyệt vời từ phía các Giáo Hội Trung và Ðông Âu cũng như chứng từ trung tín và dũng cảm của nhiều Giáo Hội khác hiện đang phải gánh chịu những bách hại và những thử luyện nhân danh đức tin (11).
Niềm khát vọng hướng về Thiên Chúa, niềm khát vọng về một mối quan hệ sống động và có ý nghĩa với Thiên Chúa ngày nay biểu hiện rõ rệt đến mức tạo điều kiện thuận lợi cho sự quảng bá những hình thái tôn giáo phi Thiên Chúa và nhiều giáo phái khác nữa ở những nơi mà không có được sự loan báo Tin Mừng Ðức Giêsu một cách chính hiệu và toàn vẹn. Ðối với mọi con cái Giáo Hội, đặc biệt đối với các linh mục, sự quảng bá ấy, thậm chí nơi một số môi trường có truyền thống Kitô giáo, là nguyên do thường hằng buộc phải kiểm điểm lương tâm, phải xét lại tính khả tín nơi chứng từ Tin Mừng của mình; thế nhưng sự quảng bá ấy cũng là một dấu hiệu cho thấy sự truy tầm Thiên Chúa vẫn còn sâu xa và rất phổ biến.
7. Người ta nhận thấy nhiều yếu tố khác có tính chất vấn nạn hoặc tiêu cực pha trộn vào các yếu tố nói trên và vào những yếu tố tích cực khác.
Chủ nghĩa duy lý vẫn còn rất phổ biến, nhân danh một quan niệm giản lược hoá của "khoa học", chủ nghĩa này khép chặt lý trí con người lại, không nhường chỗ cho sự gặp gỡ Mặc khải và không công nhận tính siêu việt của Thiên Chúa.
Người ta cũng ghi nhận rằng chủ nghĩa chủ thể của ngôi vị vẫn được bảo vệ một cách khốc liệt, chủ nghĩa này có khuynh hướng vây kín ngôi vị trong cá nhân chủ nghĩa, để rồi không thể có được những tương quan đích thực giữa người với người. Vì thế nhiều người, nhất là các thiếu niên và thanh niên, tìm cách bù trừ tình trạng cô đơn ấy bằng những phương tiện khỏa lấp thuộc nhiều bản chất khác nhau, với những hình thức tìm hướng lạc hoặc tìm trốn tránh trách nhiệm trong mức độ cường điệu khác nhau; bị giam hãm trong cái chóng qua, những người ấy tìm cách sống những kinh nghiệm cá nhân nào mạnh nhất và có lợi nhất trong mức độ có thể, những kinh nghiệm trên bình diện giác quan và cảm xúc nhất thời, bởi đó họ đương nhiên trở thành vô tâm và như thể bại liệt trước lời mời gọi bước vào một kế hoạch sống đòi phải có chiều kích thiêng liêng và tôn giáo hoặc phải có sự dấn thân trong tình liên đới.
Ngoài ra, khắp nơi trên thế giới, ngay cả khi mà những ý thức hệ lấy chủ nghĩa duy vật làm giáo điều và sự bài trừ tôn giáo làm chương trình hành động đã cáo chung, có một thứ chủ nghĩa vô thần thực hành và hiện sinh vẫn được truyền lan, chủ nghĩa này ăn khớp với một nhãn giới trần tục hoá về đời sống và về vận mệnh con người. Một con người "chỉ còn biết quan tâm đến chính mình, một con người chẳng những biến mình thành tiêu điểm hâm mộ mà còn dám tự xưng mình là nguyên lý và là căn cơ của mọi thực tại" (12), con người ấy càng ngày càng bị tước đoạt mất phần "bổ khuyết của tâm hồn", phần này lại càng rất cần thiết khi mà khối lượng dự trữ lớn lao gồm những của cải vật chất và những tài nguyên càng tạo cho người ấy ảo tưởng để tự thoả mãn với chính mình. Họ không còn cần phải đấu tranh với Thiên Chúa, họ chỉ đơn giản coi Ngài như không có.
Trong bối cảnh này, một cách đặc biệt, cần phải ghi nhận tình trạng thực tại gia đình đang bị thoái hoá, ý nghĩa đích thực của tính dục con người bị lu mờ hoặc bóp méo: đây là những hiện tượng có tầm ảnh hưởng rất tiêu cực trên việc giáo dục những người trẻ và trên việc giúp họ mở lòng đón nhận các thứ ơn gọi tu trì. Người ta còn ghi nhận tình trạng trầm trọng do những bất công xã hội và do sự tập trung của cải trong tay một thiểu số, là hoa quả của một chủ nghĩa tư bản phi nhân bản (13), càng ngày càng khơi thêm hố ngăn cách giữa những dân tộc giàu và những dân tộc nghèo: bởi đó có sự phát sinh trong xã hội con người những căng thẳng và những băn khoăn làm cho đời sống cá nhân và cộng đoàn bị xáo trộn cách sâu đậm.
Trong môi trường Giáo Hội, người ta cũng ghi nhận những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại ảnh hưởng đến đời sống và thừa tác vụ của các linh mục: chẳng hạn sự ngu dốt, sự thiếu hiểu biết về tôn giáo vẫn đang dai dẳng nơi nhiều tín hữu, ảnh hưởng thấp kém của huấn giáo bị lấn át bởi những sứ điệp phổ biến sâu rộng và có sức mạnh hơn về phía những cơ quan truyền thông xã hội; sự đa nguyên trong lãnh vực thần học, văn hoá và mục vụ, mặc dầu đôi khi được khởi xướng với ý ngay lành đã bị hiểu lệch lạc và rốt cuộc làm cho đối thoại đại kết trở nên khó khăn và tạo nguy cơ cho sự hiệp nhất đức tin cần có; sự tồn tại lâu dài của một thái độ nghi kỵ và hầu như bất khoan nhượng đối với Huấn Quyền của phẩm trật; sự đẩy mạnh nguồn phong phú của sứ điệp Tin Mừng theo kiểu một chiều và giản lược để rồi biến việc loan báo đức tin và làm chứng cho đức tin thành một đóng góp đơn thuần cho sự giải phóng con người và xã hội hoặc thành một nơi ẩn trú làm cho con người tha hoá trong sự mê tín hoặc trong một trạng thái tôn giáo phi Thiên Chúa (14).
Sự hiện diện trên cùng một một lãnh thổ những tập thể bền bỉ gồm những người thuộc sắc tộc và tôn giáo khác nhau là một hiện tượng rất ư quan trọng ngay cả khi đó là một hiện tượng đổi mới mẻ nơi nhiều quốc gia có thuyền thống Kitô Giáo từ lâu đời. Cứ như thế mà ngày càng phát triển một xã hội da sắc tộc và đa tôn giáo. Nếu một đàng hiện tượng này có thể trở nên cơ hội cho một nỗ lực đối thoại thường xuyên hơn và hiệu nghiệm hơn, cho một sự mờ ngỏ hướng đến những tinh thần cũng như những kinh nghiệm tiếp đón và khoan dung đúng mức, thì đàng khác nó lại có thể trở nên nguồn phát sinh sự xáo trộn và chủ nghĩa tương đối, nhất là nơi những cá nhân và tập thể không mấy vững chắc về đức tin.
Ngoài những yếu tố trên, trong sự liên kết chặt chẽ với đà đi lên của chủ nghĩa cá nhân, còn có thể kể thêm chủ nghĩa duy chủ thể về đức tin. Nơi một con số Kitô hữu ngày càng gia tăng, người ta ghi nhận có sự sút kém, trong việc gắn bó với nội dung khách quan của giáo thuyết đức tin : người ta gắn bó một cách chủ quan vào những gì để ưa, vào những gì tương hợp với kinh nghiệm riêng rẽ của mình, vào những gì không gây xáo trộn cho những thói quen riêng tư của mình. Cuối cùng việc nại tới tính bất khả xâm phạm của lương tâm cá nhân, tự nó là chính đáng, trong một bối cảnh như thế, không khỏi mặc lấy những tính chất nguy hiểm và hàm hồ.
Từ đó dẫn đến sự kiện này là càng ngày người ta càng thuộc về Giáo Hội một cách không trọn vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự nở rộ các ơn gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có về căn tính và về thừa tác vụ của mình trong cộng đoàn.
Sau hết, cho đến ngày hôm nay, nơi nhiều vùng. Giáo Hội vẫn còn phải gánh chịu những vấn đề nghiêm trọng do sự kiện các lực lượng linh mục không có mặt đầy đủ và bởi đó ít đáp ứng hơn cho những nhu cầu. Các tín hữu thường bị bỏ rơi trong những giai đoạn lâu dài, thiếu sự trợ giúp mục vụ thích đáng. Sự tăng triển đời sống Kitô hữu của họ nói chung phải thiệt thòi và hơn nữa, khả năng trở thành tác nhân rao giảng Tin Mừng của chính họ bị giảm sút.
Những người trẻ trước ơn gọi và việc đào tạo linh mục
8. Những mâu thuẫn và triển vọng đa tạp đánh dấu các xã hội, các nền văn hoá và đồng thời các cộng đoàn Giáo Hội chúng ta được thế giới người trẻ cảm nhận và sống với một cường độ rất đặc biệt, với những âm vang trực tiếp và rất mãnh liệt trên bước đường giáo dục của họ. Trong chiều hướng ấy, sự khởi động và sự phát triển các ơn gọi linh mục nơi trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên không ngừng phải đương đầu với những cản trở và những khích lệ.
Cái mà người ta gọi là "xã hội tiêu dùng" mê hoặc những người trẻ một cách dữ dội, làm cho họ trở thành nạn nhân và tù nhân của một lối giải thích cuộc hiện hữu con người mang tính chất duy cá nhân, duy vật và duy khoái lạc ! Quan niệm "sống thoải mái" hiểu theo nghĩa vật chất có khuynh hướng trở thành lý tưởng độc nhất của cuộc đời, một lối "sống thoải mái" phải đạt được với bất cứ điều kiện nào và với bất cứ giá nào. Hiệu quả là từ chối mọi hy sinh, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những giá trị tinh thần và tôn giáo. Mối "quan tâm" độc chiếm về cái sở hữu dành chỗ cái ưu việt là hiện hữu ; và, từ đó, các giá trị nhân vị và liên vị không được cắt nghĩa và sống theo luân lý của ơn huệ, của tính nhưng không, nhưng theo luân lý của sự chiếm hữu ích kỷ và sự bóc lột kẻ khác.
Tình trạng này được nhận ra một cách đặc biệt trong quan niệm về tính dục con người, sa đoạ và mất phẩm giá, từ chỗ nằm phục vụ cho hiệp thông và trao hiến liên vị đến chỗ giàn lược thành đơn thuần một mặt hàng tiêu dùng. Bởi đó, kinh nghiệm cảm tính của số đông những người trẻ thay vì dẫn đến sự tăng trưởng hoà điệu và tươi đẹp về nhân cách, thay vì mở ngỏ cho họ hướng đến tha nhân trong sự trao hiến chính mình lại dẫn đến một sự thoái nhượng nghiêm trọng về mặt tâm lý và đạo đức, mang theo những hậu quả nặng nề cho tương lai họ.
Ðối với nhiều người trẻ, cội rễ của các khuynh hướng nói trên chính là kinh nghiệm lệch lạc về tự do : tự do thay vì được đảm nhận để tuân theo chân lý khách quan và phổ quát thì lại được cảm mến như là sự đồng tình mù quáng với những mãnh lực của bản năng và với ý muốn thống trị của mỗi người. Do vậy, một cách nào đó, xét theo phương diện não trạng và cách xử sự, thật là tự nhiên khi có sự tiêu tan về thái độ gắn bó nội tâm đối với những nguyên tắc luân lý; thật là tự nhiên, xét theo phương diện tôn giáo, nếu không phải trong mọi trường hợp, khi có sự từ chối Thiên Chúa một cách minh nhiên, hay ít ra có thái độ bất cần hoặc một cuộc sống mà ngay cả trong những giây phút có ý nghĩa nhất và trong những lựa chọn dứt khoát nhất chỉ được sống như thể không hề có Thiên Chúa. Trong một bối cảnh như thế, thật là khó khăn cho ý nghĩa của một ơn gọi linh mục có thể thực hiện, thậm chí có thể hiểu; bởi vì ơn gọi là một chứng từ loại biệt về tính ưu việt của cái hiện hữu trên cái chiếm hữu; ơn gọi còn là nhìn nhận ý nghĩa của đời sống như là một sự trao hiến chính mình tự do và có trách nhiệm cho người khác và như là một tư thế sẵn sàng để hoàn toàn phục vụ Tin Mừng và Nước Chúa trong chức linh mục.
Ngay cả trong cộng đoàn Giáo Hội, thế giới người trẻ vẫn đang thường là một "vấn nạn". Thực vậy, nếu còn hơn cả nơi người trưởng thành, nơi người trẻ, có một xu hướng khá mạnh tiến tới thái độ duy chủ thể trong lãnh vực đức tin và tiến tới tình trạng thuộc về đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội chỉ phiếm diện và có điều kiện, thì trong cộng đoàn Giáo Hội người ta phải vất vả, vì một loạt nguyên cớ, để tổ chức một nền mục vụ cho giới trẻ sao cho thích nghi và kiến hiệu : người trẻ có nguy cơ bị bỏ rơi, làm mồi cho sự mong manh về tâm lý, bất mãn và chỉ trích khi nhìn thấy những người lớn không sống đức tin cho hợp lẽ và chín muồi và do đó không nêu được những mẫu gương đáng tin cậy.
Bởi vậy, khó có thể đề nghị cho những người trẻ và đào tạo cho họ một kinh nghiệm sống trọn vẹn và năng động đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội. Do sự kiện ấy, viễn tượng ơn gọi linh mục vẫn xa cách với những tiêu điểm hâm mộ cụ thể của người trẻ.
9. Dầu vậy, không thiếu những tình huống đầy khích lệ và tích cực có khả năng khơi dậy và cổ xuý trong tâm hồn các thiếu niên và thanh niên một thái độ sẵn sàng đáp ứng mới cũng như một sự truy tầm đích thực và chính hiệu đối với các giá trị đạo đức và tinh thần, vốn tự bản chất cống hiến một mảnh đất thuận lợi cho sự nở rộ ơn gọi nhằm trao hiến trọn vẹn chính mình cho Chúa Kitô và cho Giáo Hội trong chức linh mục.
Trước hết, một số hiện tượng mới đây đã gây khá nhiều vấn đề nay được ghi nhận là có phần giảm thiểu, chẳng hạn sự phản kháng có tính triệt để, những làn sóng phóng túng, những yêu sách nặng tính không tưởng, những hình thức xã hội hoá bất chấp phân biệt, sự bạo động.
Ðàng khác, phải công nhận rằng những người trẻ ngày nay, với sức mạnh và sự tươi mát của lứa tuổi mình, cưu mang nơi họ những lý tưởng đang dần dà hội nhập vào lịch sử : niềm khao khát tự do, sự nhận thức giá trị vô song của nhân vị, nhu cầu phải chân chính và trong suốt, một quan niệm mới và một thể loại mới về tính hỗ tương trong những quan hệ giữa nam và nữ, sự truy tầm xác tín và say mê nhằm tiến tới một thế giới công bằng hơn, liên đới hơn và hiệp nhất hơn, sự mở ngỏ hướng đến đối thoại với mọi người, sự dấn thân cho hoà bình.
Nơi nhiều người trẻ thời đại, người ta ghi nhận một sự phát triển thật phong phú và thật sống động về nhiều hình thức tự nguyện đáp ứng nhu cầu của những người phải sống trong cảnh bị bỏ rơi và vất vưởng giữa lòng xã hội, thái độ sẵn sàng đáp ứng này được coi là một yếu tố tác động rất quan trọng cho việc giáo dục, bởi vì khuyến khích và nâng đỡ những người trẻ trong một lối sống vô vị lợi hơn, cởi mở hơn và liên đới hơn với người nghèo. Nếp sống ấy có thể giúp khai thông sự hiểu biết, niềm khát vọng và sự đón nhận một ơn gọi hướng đến việc phục vụ tha nhân lâu bền và hoàn toàn, nhất là bằng đường lối dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa trong đời sống linh mục.
Sự sụp đổ gần đây của các ý thức hệ, thái độ nặng tính chất phê phán khi đứng trước thế giới những người lớn vốn không luôn luôn nêu dẫn một chứng từ sống được hun đúc bằng các giá trị luân lý và siêu việt, cả đến kinh nghiệm của những người đồng trang lứa đi tìm đào thoát trong ma tuý và bạo lực, tất cả góp phần rất lớn để phải đẩy mạnh hơn và phải nhất thiết không tránh né vấn đề cơ bản về những giá trị thực sự có khả năng mang lại ý nghĩa viên mãn của chúng cho cuộc sống. Nơi rất nhiều người trẻ, khát vọng tôn giáo và nhu cầu thiêng liêng ngày càng tỏ hiện cách minh nhiên : từ đó có khát vọng sống kinh nghiệm hoang địa và cầu nguyện, có sự quay trở về với việc đọc Lời Chúa thiết thân hơn và thường đều hơn, với việc nghiên cứu thần học.
Trong khuôn khổ của môi trường tự nguyện, cũng như trong khuôn khổ của công đoàn Giáo Hội, những người trẻ trở thành những chiến hữu mỗi ngày một tích cực, nhất là trong việc tham gia các nhóm, từ những nhóm lâu đời nhất nay đã được canh tân cho tới những nhóm mới được thành lập: đây là kinh nghiệm của một Giáo Hội được mời gọi vào công cuộc "phúc âm hoá mới" bằng sự trung thành với Thần Khí, Ðấng tạo sức sống cho Giáo Hội, và thể theo những khát vọng của một thế giới xa cách Thiên Chúa nhưng lại cần đến Ngài; đây cũng là kinh nghiệm của một Giáo Hội liên đới hơn với con người và các dân tộc, trong công cuộc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, nhân quyền của mọi người và của từng người. Tất cả những điều ấy khai mở tâm hồn và đời sống những người trẻ hướng đến những lý tưởng có sức thu hút và đòi phải dấn thân, những lý tưởng có thể thực hiện một cách cụ thể bằng việc nối gót Chúa Kitô trong chức linh mục.
Tình trạng của con người và của Giáo Hội được đánh dấu bằng một tính chất hàm hồ và lưỡng nghĩa sâu đậm như thế chắc hẳn sẽ làm nền, chẳng những cho mục vụ ơn gọi và cho việc đào tạo linh mục tương lai, mà còn cho khuôn khổ đời sống và thừa tác vụ của mọi linh mục, và cho việc đào tạo trường kỳ. Bởi đó, nếu người ta hiểu được những hình thức "khủng hoảng" khác nhau mà các linh mục ngày nay cảm nghiệm trong việc thi hành thừa tác vụ, trong đời sống thiêng liêng, cả đến trong việc diễn giải bản chất và ý nghĩa của chức linh mục thừa tác, người ta cũng phải vui mừng và hy vọng mà nhận ra được những triển vọng tích cực mà khúc quanh lịch sử hiện nay cung ứng cho các linh mục trong việc hoàn thành sứ vụ của mình.
Sự phân định dựa theo Tin Mừng
10. Như đã được gợi lên qua một vài nhận định thoáng qua có tính cách ví dụ, tình huống phức tạp hiện nay chẳng những cần phải được nhận thức nhưng còn phải và nhất là phải được diễn giải. Chỉ bằng cách đó người ta mới có thể trả lời rành mạch câu hỏi cơ bản : "Làm sao để đào tạo các linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện nay, cho thực sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?" (15).
Nhận thức tình huống là điều quan trọng. Chỉ nêu dẫn một số dữ kiện thì chưa đủ; cần có một cuộc tra cứu khoa học để có thể xác định cái toàn diện của một khuôn khổ cụ thể gồm những hoàn cảnh văn hoá, xã hội và Giáo Hội.
Diễn giải tình huống còn là điều quan trọng hơn. Việc làm này là do yêu cầu của tính lưỡng nghĩa và đôi khi của tính chất mâu thuẫn từ nơi tình huống, những tính chất này cũng giống như thửa đất trong Tin Mừng, trên đó hạt giống tốt và cỏ lùng cùng được gieo và mọc chung với nhau (x.Mt 1, 24-30), chứng tỏ cho thấy có sự trộn lẫn sâu đậm giữa những khó khăn và những tiềm năng, giữa những yếu tố tiêu cực và những lý do để hy vọng, giữa những cản trở và những lối mở.
Công việc diễn giải nhằm phân biệt điều thiện và điều dữ, phân biệt những dấu chỉ hy vọng và những đe doạ, không phải luôn dễ dàng. Trong công việc đào tạo linh mục, vấn đề không phải chỉ đơn thuần là thâu nhận những yếu tố tích cực và đem đối chọi chúng với những yếu tố tiêu cực. Ðiều quan trọng là phải đưa chính những yếu tố tích cực ấy ra để phân định một cách chăm chú, để đừng tách biệt yếu tố này ra khỏi yếu tố kia và đừng đem đối lập chúng với nhau, như thế chúng là những yếu tố có thể đem đối chọi nhau. Ðối với các yếu tố tiêu cực cũng vậy : đừng đem vứt bỏ chúng trọn khối mà không phân biệt, bởi vì nơi mỗi một yếu tố tiêu cực có thể tiềm ẩn một giá trị cần được cứu vãn và cần được trả về trong chân lý toàn diện.
Ðối với người tín hữu, diễn giải tình huống lịch sử có nghĩa là tôn trọng nguyên tắc vận dụng trí thông minh và dựa vào tiêu chuẩn của những lựa chọn hành động phát xuất từ đó, nguyên tắc và tiêu chuẩn này nằm trong một đòi hỏi mới và căn cơ, đó là sự phân định dựa theo Tin Mừng; việc diễn giải này hình thành trong sức mạnh và ánh sáng của Tin Mừng, của Tin Mừng sống động và cá vị, của chính Chúa Giêsu Kitô, và nhờ vào ân huệ của Chúa Thánh Thần. Bởi thế, trong tình huống lịch sử với những gì là bấp bênh của nó, công việc phân định dựa theo Tin Mừng không chỉ thâu nhận một dữ kiện đơn thuần để rồi phải đem ra ứng dụng một cách chính xác và để rồi có thể dửng dưng hoặc thụ động trước dữ kiện ấy, nhưng đúng hơn thâu nhận một "bổn phận", một thách đố đối với tự do có trách nhiệm, hoặc của cá nhân mà thôi hoặc của cộng đoàn. Ðó là một thách đố gắn liền với "lời mời gọi" mà Thiên Chúa làm vang vọng trong chính tình huống lịch sử : vì vậy, trong tình huống, Thiên Chúa mời gọi trước hết Giáo Hội cùng với người tín hữu làm sao cho "Tin Mừng về ơn gọi và về chức linh mục" diễn dạt được tính trường tồn của chân lý trong những hoàn cảnh đổi thay của cuộc sống. Cũng cần phải áp dụng cho việc đào tạo linh mục những lời của của Công đồng Vaticanô II: "Giáo Hội có bổn phận, bất cứ lúc nào, tra cứu các dấu chỉ thời đại và cắt nghĩa các dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng, làm thế nào cho mình có thể giải đáp, với cách thức thích nghi cho từng thế hệ, các vấn nạn muôn thuở của con người về ý nghĩa của cuộc sống hiện tại và mai ngày và về những quan hệ hỗ tương giữa con người với nhau. Bởi đó, điều cần thiết là phải nhận biết và thấu hiểu thế giới trong đó chúng ta đang sống, những mong chờ, những khát vọng và dặc tính thường là bi thảm của thế giới" (16).
Sự phân định dựa theo Tin Mừng ấy đặt nền tảng trên lòng tín thác vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô là Ðấng luôn mãi và không ngơi chăm sóc Giáo Hội (x. Ep 5,29), Ngài là Chúa và là Thầy, là nền móng, là trung tâm và là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại (17); sự phân định ấy được soi sáng và củng cố nhờ Chúa Thánh Thần Ðấng mọi nơi mọi lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin, lòng dũng cảm tươi vui để nói gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự và không bị một ai xét đoán (x. 1Cr 2,15); sự phân định ấy cậy dựa vào lòng trung thành của Chúa Cha đối với những lời hứa của Ngài.
Nhờ đó Giáo Hội cảm thấy dù khả năng đương đầu với những khó khăn và những thách đố của giai đoạn lịch sử mới. Giáo Hội cũng có thể bảo đảm cho hiện tại cũng như cho tương lai một nền đào tạo linh mục nhằm cung cấp những thừa tác viên nhiệt thành và xác tín đối với công cuộc "phúc âm hoá mới", những người đầy tớ trung thành và quảng đại phục vụ Chúa Giêsu Kitô và phục vụ loài người.
Chúng ta đừng che dấu những khó khăn. Những khó khăn không phải là hiếm và cũng không nhẹ nhàng. Ðể thắng vượt khó khăn, chúng ta có niềm hy vọng và niềm tin vào tình yêu bất khả khuyết của Chúa Kitô, chúng ta có niềm tin vững chắc vào tính bất khả thay thế của thừa tác vụ linh mục đối với đời sống Giáo Hội và thế giới.
- - - - - - - - - - - - - - - - - -
(9) Kinh Truyền Tin (14/01/1990), số 2 : Osservatore Romano, 15-16/01/1990.
(10) Như trên, số 3 : 1.c.
(11) X. Propositio 3.
(12) Bài giảng của Ðức Phaolô VI nhân khoá họp thứ IX CÐ Vat.II (7/12/1965): AAS 58 (1966), tr.55.
(13) X. Propositio 3.
(14) X. Như trên.
(15) X. Thượng Hội Ðồng các Giám Mục về việc đào tạo các linh mục trong hoàn cảnh hiện nay - "Lineamenta" (1989), số 5-6.
(16) Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, MV số 4.
(17) X. Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Phiên họp khoáng đại thường kỳ VII, Sứ Ðiệp của các Nghị Phụ Thượng Hội Ðồng gởi Dân Chúa (28/10/1990), 1 : 1.c.