Tĩnh tâm Mùa Chay 2024 cùng Giáo triều Rôma.

Bài thứ Hai: Ta là ánh sáng thế gian

 

Tĩnh tâm Mùa Chay 2024 cùng Giáo triều Rôma. Bài thứ Hai: Ta là ánh sáng thế gian.

Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An

Vatican (VietCatholic News 07-03-2024) - Hàng năm, vào Mùa Vọng và Mùa Chay, Ðức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng có bài giảng tĩnh tâm trước Giáo triều Rôma.

Bài giảng thứ Hai của Ðức Hồng Y có tựa đề: Ta là ánh sáng thế gian

Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ:

 

Trong những bài thuyết giảng Mùa Chay này, chúng ta đã đề nghị suy niệm về những câu "Ta là" (Ego eimi) vĩ đại được Chúa Giêsu tuyên bố trong Tin Mừng Gioan. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra đặt là: Liệu những câu "Ta là" ấy có thực sự được Chúa Giêsu nói ra hay là do những suy tư sau này của Thánh sử, giống như nhiều phần của Tin Mừng Thứ Tư? Câu trả lời mà hầu như tất cả các nhà chú giải ngày nay đều đưa ra cho câu hỏi này là câu thứ hai. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng những lời tuyên bố này thực sự là "từ Chúa Giêsu" và tôi sẽ cố gắng giải thích tại sao.

Có một sự thật lịch sử và một sự thật mà chúng ta có thể gọi là thật sự, hoặc có tính bản thể. Chúng ta hãy lấy một trong những câu "Ta là" của Chúa Giêsu, chẳng hạn như câu: "Ta là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14:6). Nếu thông qua một khám phá mới nào đó khó lòng xảy ra được mà chúng ta biết được rằng câu này, trên thực tế và về mặt lịch sử, đã được Chúa Giêsu trần thế tuyên bố, thì đây không phải là điều khiến câu ấy trở thành "thật" (vì người thốt ra câu đó có thể đang tự lừa dối chính mình!). Ðiều làm cho tuyên bố này trở nên "thật" đó là - trong thực tế và vượt lên trên mọi khả thể lịch sử - Chúa Giêsu thật sự là đường, là sự thật và là sự sống.

Theo nghĩa sâu xa hơn và quan trọng hơn này, mỗi lời tuyên bố mà Chúa Giêsu đưa ra trong Tin Mừng Gioan đều là thật, kể cả lời tuyên bố long trọng của Người: "Trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!" (Ga 8: 58). Ðịnh nghĩa cổ điển về chân lý là "sự tương ứng giữa sự vật và ý tưởng mà người ta có về sự vật" (adaequatio rei et Intellectus); chân lý được mạc khải là sự tương ứng hoàn hảo giữa thực tại và lời được mạc khải diễn tả chân lý đó. Vì vậy, những lời vĩ đại mà chúng ta sẽ suy niệm đều đến từ Chúa Giêsu: không phải từ Chúa Giêsu lịch sử, nhưng từ Chúa Giêsu, là Ðấng - như Người đã hứa với các môn đệ (Ga 16:12-15) - nói với chúng ta bằng thẩm quyền của Ðấng Phục Sinh, qua Thánh Thần của Người.

* * *

Từ hội đường Capernaum miền Galilê, hôm nay chúng ta tiến tới đền thờ Giêrusalem trong miền Giuđêa, nơi Chúa Giêsu đã đến nhân dịp Lễ Lều. Ở đây diễn ra cuộc tranh luận với "người Do Thái", trong đó lời tự tuyên bố của Chúa Giêsu được đưa ra, mà trong bài suy niệm này, chúng ta muốn tập trung:

"Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8:12).

Lời này tràn đầy ý nghĩa và quá đẹp đến nỗi các Kitô hữu ngay lập tức chọn làm một trong những tước hiệu yêu thích về Ðức Kitô. Trong nhiều vương cung thánh đường cổ - chẳng hạn như nhà thờ chính toà Cefalù và Monreale ở Sicily - bức tranh khảm phía sau thánh đường mô tả Chúa Giêsu là Ðấng Pantocrator, hay Chúa của vũ trụ. Người cầm một cuốn sách mở trước mặt và giơ ra trang có viết chính những lời này, bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh: Egô eimi to phos tou cosmou - Ego sum lux mundi - Ta là ánh sáng thế gian.

Ðối với chúng ta ngày nay, Chúa Giêsu "ánh sáng thế gian" đã trở thành một chân lý được tin và được công bố, nhưng đã có lúc sự việc không chỉ như vậy, mà hơn thế, đó là một trải nghiệm sống động, như đôi khi xảy ra với chúng ta, chẳng hạn như sau khi cúp điện, ánh sáng bất ngờ có lại, hoặc vào buổi sáng, khi mở cửa sổ, chúng ta được bao phủ với ánh sáng ban ngày. Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô nói về trải nghiệm này như một cuộc hành trình "ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền" (1 Pr 2: 9; Cl 1:12 ff.). Khi nhớ lại giây phút hoán cải và lãnh Phép Rửa của mình, Tertullian diễn tả giây phút này bằng hình ảnh một hài nhi bước ra từ bóng tối của lòng mẹ và hoảng sợ khi tiếp xúc với không khí và ánh sáng. Ông viết: "Bước ra từ một cung lòng vô minh, những Kitô hữu chúng ta, run rẩy trước ánh sáng chói lọi của chân lý" [1].

* * *

Chúng ta lập tức tự hỏi: Lời tuyên bố của Chúa Giêsu "Ta là ánh sáng thế gian" có ý nghĩa gì đối với chúng ta, tại đây và lúc này? Cụm từ "ánh sáng thế gian" có 2 ý nghĩa cơ bản. Trước hết, ý nghĩa thứ nhất đó là: Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian vì Người là mạc khải tối cao và chung cuộc của Thiên Chúa cho nhân loại. Lời mở đầu của Thư gửi tín hữu Do Thái nêu rõ điều này một cách rõ ràng và trang trọng nhất:

Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Ðấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1:1-2).

Tính mới lạ nằm ở chỗ thực tại độc nhất và không thể lặp lại đó là chính người mạc khải lại chính là mạc khải! "Ta là ánh sáng thế gian" chứ không phải "Ta mang ánh sáng vào thế gian". Các ngôn sứ nói ở ngôi thứ ba: "Chúa phán thế này!", còn Chúa Giêsu nói ở ngôi thứ nhất: "Ta bảo cho các ông biết!". Năm 1964, Marshall McLuhan đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng: "Phương tiện truyền thông là sứ điệp", nghĩa là phương tiện truyền tải sứ điệp quyết định chính sứ điệp đó. Câu nói này áp dụng một cách độc đáo và siêu việt cho Ðức Kitô. Nơi Người, phương tiện truyền tải thực sự là sứ điệp; người chuyển trao sứ điệp cũng chính là sứ điệp!

Như tôi đã nói, đây là ý nghĩa thứ nhất của cụm từ "ánh sáng thế gian". Thứ đến, ý nghĩa thứ hai đó là: Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian theo nghĩa chính Người chiếu sáng thế gian, có nghĩa là Người phơi bày thế gian cho chính nó; Người phơi bày mọi sự trong sự thật của Người, như chúng ở trước mặt Thiên Chúa.

* * *

Chúng ta hãy suy tư về từng ý nghĩa trong 2 ý nghĩa này, khởi đi từ ý nghĩa thứ nhất, nghĩa là Chúa Giêsu là mạc khải tối cao về chân lý của Thiên Chúa. Từ quan điểm này, ánh sáng là Ðức Kitô luôn có một đối thủ cạnh tranh khốc liệt, đó là lý trí con người. Chúng ta nói về vấn đề này không nhằm mục đích luận chiến hay hộ giáo, tức là biết cách làm sao để đáp lại những người chống đối đức tin (điều này sẽ mâu thuẫn với mục đích ban đầu của tôi), mà là để khẳng định mình trong đức tin.

Theo tôi, các cuộc tranh luận về đức tin và lý trí - chính xác hơn là về lý trí và mạc khải - bị ảnh hưởng bởi tính bất đối xứng cao độ. Người có đức tin chia sẻ lý trí với người vô thần; người vô thần không chia sẻ niềm tin vào mạc khải với người có đức tin. Người có đức tin thì nói ngôn ngữ của người đối thoại vô thần; người vô thần thì không nói ngôn ngữ của người đối tác có đức tin.

Ðây chính là lý do tại sao cuộc tranh luận thuyết phục nhất về chủ đề đức tin và lý trí lại là cuộc tranh luận diễn ra trong chính con người, giữa đức tin và lý trí của chính mình. Chúng ta có những ví dụ điển hình nổi tiếng trong lịch sử tư tưởng nhân loại về những người, mà nơi họ, chúng ta không thể nghi ngờ niềm say mê ngang nhau đối với cả lý trí và đức tin: Thánh Augustinô thành Hippo, Thánh Tôma Aquino, Blaise Pascal, S#ren Kierkegaard, Thánh John Henry Newman, và chúng ta có thể thêm vào Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Ðức Bênêđictô XVI...

Kết luận mà mỗi người trong số các ngài đưa ra đó là hành động tối thượng của lý trí con người là nhận ra rằng có một điều gì đó vượt lên trên lý trí. Ðây cũng là điều khiến lý trí trở nên cao quý nhất vì nó cho thấy khả năng vượt lên trên chính nó. Ðức tin không đối lập với lý trí nhưng nó giả định cần có lý trí, cũng như "ân sủng giả định phải có tự nhiên" [2].

Ngoài ra còn có một sự hiểu lầm thứ hai cần làm sáng tỏ liên quan đến cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí. Lời chỉ trích phổ biến nhắm vào các tín hữu là họ không thể khách quan, vì đức tin của họ ngay từ đầu đã áp đặt cho họ cái kết luận mà họ phải đạt đến. Nói cách khác, đức tin đóng vai trò như một tiền đề và một thành kiến. Nhưng ở đây người ta không chú ý đến thực tế là chính thành kiến này cũng tác động theo hướng ngược lại đối với nhà khoa học hoặc triết gia không có đức tin, và thậm chí còn theo một cách triệt để hơn nhiều. Nếu bạn đương nhiên giả định rằng Thiên Chúa không hiện hữu, rằng siêu nhiên không tồn tại, và phép lạ là không thể xảy ra, thì kết luận của bạn cũng đã được định trước ngay từ đầu rồi còn gì.

Ðây là một ví dụ trong số nhiều ví dụ. Dựa trên nhãn quan của Freud về thực tế, liệu ông có thể thừa nhận rằng "tình yêu phổ quát" của thánh Phanxicô Assisi có một thành phần siêu nhiên được gọi là ân sủng chăng? Tất nhiên là không, và trên thực tế, Freud coi đó là một "nguồn gốc của tình yêu tính dục". Theo ông, Thánh Phanxicô chỉ "là người đã sử dụng tình yêu nhiều nhất để mang lại lợi ích cho cảm giác hạnh phúc nội tâm của mình". Nghĩa là, Thánh Phanxicô yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người, yêu mến mọi thụ tạo, và nhất là yêu mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh, bởi vì điều này mang lại cho thánh nhân niềm vui và khiến ngài cảm thấy dễ chịu! [3],

Con người hiện đại, thay vì chọn chân lý, lại chọn việc tìm kiếm chân lý là giá trị tối thượng. Lessing đã viết rằng: "Nếu Thiên Chúa cầm trong tay phải Ngài tất cả chân lý, và trong tay trái Ngài chỉ có khát vọng hướng về chân lý luôn sống động, cho dù là nó trong tình trạng vĩnh viễn sai, và nếu Ngài nói với tôi: 'Hãy chọn đi!', thì tôi nên khiêm tốn cúi đầu về phía bên trái và nói: 'Ðây, thưa Cha! Sự thật thuần khiết chỉ thuộc về Cha mà thôi" [4].

Lý do cho điều này khá đơn giản. Chừng nào bạn còn ở trong giai đoạn nghiên cứu, thì chính bạn là người dẫn dắt trò chơi, với tư cách là nhân vật chính, trong khi đó, đối diện với chân lý được thừa nhận như vậy, bạn không còn cơ hội nữa và bạn phải đáp lại bằng "sự vâng phục của đức tin". Ðức tin thừa nhận sự tuyệt đối, trong khi lý trí lại muốn tiếp tục tranh luận vô thời hạn. Giống như nàng Scheherazade xinh đẹp trong chuyện Ngàn Lẻ Một Ðêm, lý trí của con người luôn có một câu chuyện mới để kể để trì hoãn sự quy phục của mình.

Chỉ có 2 giải pháp khả thi cho sự căng thẳng giữa đức tin và lý trí: hoặc giảm thiểu đức tin "trong giới hạn của lý trí thuần túy", hoặc phá bỏ giới hạn của lý trí thuần túy để "mở rộng ra một chân trời vô tận". Giống như khi Ulysses của Dante, người đã chạm tới "Những cột trụ của Hercules", mà khi đó từng được coi là nơi tận cùng của Trái đất, quyết định không dừng lại mà biến mái chèo thành đôi cánh cho chuyến bay táo bạo [5].

Tuy nhiên, tôi phải nhất quán với những tiền đề của mình. Cuộc tranh luận về đức tin và lý trí, trước khi trở thành cuộc tranh luận giữa "chúng ta và họ", giữa người tin và người không tin, phải là cuộc tranh luận giữa chính những người có đức tin. Thật ra, loại chủ nghĩa duy lý tồi tệ nhất không phải là loại chủ nghĩa duy lý bên ngoài, mà là loại chủ nghĩa duy lý bên trong. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: "Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lời lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa (1 Cr 2:4-5)."

Và ở một nơi khác, ngài viết: "Khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới, nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn lũy. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Ðức Kitô. (2 Cr 10:4-5)."

Tiếc thay điều mà thánh Tông đồ lo sợ đã thường xảy ra giữa chúng ta. Thần học, nhất là ở phương Tây, ngày càng xa rời quyền năng của Thánh Thần để dựa vào sự khôn ngoan của con người. Chủ nghĩa duy lý hiện đại yêu cầu Kitô giáo phải trình bày sứ điệp của mình một cách biện chứng, nghĩa là đặt sứ điệp ấy vào nghiên cứu và thảo luận, để nó có thể phù hợp với khuôn khổ chung, cũng có thể chấp nhận được về mặt triết học của một nỗ lực chung và luôn mang tính tạm thời trong việc tự hiểu về số phận con người và vũ trụ. Tuy nhiên, khi làm như vậy, việc loan báo về cái chết và sự Phục sinh của Ðức Kitô phải lệ thuộc vào một thẩm quyền khác - và được cho là có thẩm quyền cao hơn - Việc loan báo này không còn là một lời công bố Tin Mừng nữa mà chỉ là một giả thuyết.

Mối nguy hiểm cố hữu trong đường lối thần học này là Thiên Chúa bị đối tượng hóa. Ngài trở thành một đối tượng mà chúng ta nói đến chứ không phải là một chủ thể - hoặc với sự hiện diện của chủ thể đó - mà chúng ta nói chuyện với. Một "Ông ấy" - hay tệ hơn là "Nó" - chứ không bao giờ là "Ngài"! Ðây là hậu quả của việc coi thần học là một "khoa học". Nhiệm vụ trước hết của những người làm khoa học là phải trung lập với đối tượng nghiên cứu của mình; nhưng liệu bạn có thể giữ thái độ trung lập khi đề cập đến Thiên Chúa chăng? Ðây là lý do chính đã thúc đẩy tôi, tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời, từ bỏ việc giảng dạy thần học mang tính hàn lâm để dành trọn thời gian cho việc giảng thuyết. Thật vậy, hậu quả của cách làm thần học này là nó ngày càng trở thành một cuộc đối thoại với giới tinh hoa học thuật của thời đại, và ngày càng ít trở thành nguồn nuôi dưỡng cho đức tin của dân Chúa.

Chúng ta chỉ có thể thoát khỏi tình trạng này bằng việc cầu nguyện, nói chuyện với Chúa trước khi nói về Chúa. Một vị Giáo phụ cổ xưa đã nói "Nếu bạn là một nhà thần học, bạn sẽ cầu nguyện thực sự, và nếu bạn cầu nguyện thực sự, bạn sẽ là một nhà thần học" [6]. Thánh Augustinô đã đạt được nền thần học bền vững và an toàn nhất của mình - bằng cách nói chuyện với Thiên Chúa trong tác phẩm Lời Tự thú của ngài. Việc chiêm niệm và noi gương Mẹ Thiên Chúa cũng giúp ích cho việc này. Trong cuộc sống trần thế của mình, Mẹ không lưu tâm gì đến những ý tưởng trừu tượng về Thiên Chúa và Chúa Giêsu Con của Mẹ, mà chỉ quan tâm đến thực tại sống động của các Ngài.

* * *

Ở phần đầu, tôi đã đề cập đến ý nghĩa thứ hai của cụm từ "ánh sáng thế gian", và tôi muốn dành phần cuối cùng trong suy tư của mình cho nghĩa thứ hai này, và đây cũng là phần liên quan chặt chẽ nhất đến chúng ta. Như tôi đã nói, điều này có ý nghĩa khí cụ, có thể nói như thế, trong đó Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian: nghĩa là, Người chiếu sáng mọi sự; và Người làm cho thế gian giống như những gì mà mặt trời làm cho trái đất. Mặt trời không chiếu sáng cho chính nó mà chiếu sáng vạn vật trên trái đất và khiến vạn vật tỏ hiện dưới ánh sáng đích thực của nó.

Cũng theo nghĩa thứ hai này, Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người có một đối thủ cạnh tranh nguy hiểm nhất, là đối thủ nội bộ, đối phương trong nhà. Cụm từ "ánh sáng thế gian" thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của nó tùy thuộc vào việc cụm từ "thế gian" được coi là sở hữu khách quan hay sở hữu chủ quan; nghĩa là tùy thuộc vào việc thế gian là đối tượng được chiếu sáng hay, thay vào đó, là chủ thể chiếu sáng. Trong trường hợp thứ hai này, thì không phải Tin Mừng mà là thế gian khiến chúng ta nhìn mọi sự theo ánh sáng riêng của chúng. Thánh sử Gioan đã khuyên nhủ các môn đệ của mình bằng những lời này: "Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian" (1 Ga 2: 15-16).

Mối nguy hiểm của việc tuân theo thế gian này - tức là tinh thần thế gian - trong lĩnh vực tôn giáo và tâm linh, cũng tương đương với điều mà trong lĩnh vực xã hội, chúng ta gọi là tục hóa. Chẳng ai (đặc biệt là chính tôi) có thể nói rằng mối nguy hiểm này không rình rập họ. Một câu nói được cho là của Chúa Giêsu trong một bản văn cổ không chính thức có nội dung: "Nếu bạn không kiêng bớt thế gian, bạn sẽ không khám phá được vương quốc của Thiên Chúa". Ðây có lẽ là cuộc ăn chay cần thiết nhất hiện nay: kiêng bớt thế gian, nesteuein tô kosmô, như câu nói đã được trích dẫn ở trên!

Thế gian mà chúng ta nói đến và thế gian mà chúng ta không được tuân theo không phải là thế gian được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương; thực ra, không phải con người thế gian mà chúng ta phải luôn luôn gặp gỡ, đặc biệt là những người nghèo, những người thấp kém, và những người đau khổ. Nghịch lý thay, "việc hòa nhập" với thế giới của những người đau khổ và bị gạt ra lề xã hội này lại là cách tốt nhất để "tách" mình ra khỏi thế gian, bởi vì điều đó có nghĩa là đi đến nơi mà thế gian đang chạy trốn bằng tất cả sức mạnh của nó. Nó có nghĩa là tách mình ra khỏi nguyên tắc thống trị thế giới, là sự ích kỷ.

Sự thay đổi trước hết phải diễn ra trong cách chúng ta tư duy. Thánh Phaolô khuyến khích các Kitô hữu ở Rôma rằng: "Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" (Rm 12:2).

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tính thế tục, nhưng nguyên nhân chính là sự khủng hoảng đức tin. Ðức tin là chiến trường chính giữa Kitô hữu và thế gian. Chính nhờ đức tin mà người Kitô hữu không còn "thuộc về" thế gian nữa. Hiểu theo nghĩa đạo đức thì "thế gian" là tất cả những gì chống lại đức tin. Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất, "chiến thắng của chúng ta đối với thế gian, đó là lòng tin của chúng ta" (1 Ga 5:4). Về vấn đề này, trong Thư gửi tín hữu Êphêsô có một lời đáng để suy ngẫm lâu hơn một chút. Ngài nói: "Anh em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em. Xưa kia anh em đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục" (Ep 2:1-2).

Nhà chú giải người Ðức, Heinrich Schlier, đã thực hiện một phân tích sâu sắc về "tinh thần thế gian" bị Thánh Phaolô coi là đối thủ trực tiếp của "tinh thần phát xuất từ Thiên Chúa" (1 Cr 2: 12). Dư luận xã hội đóng vai trò quyết định trong việc này. Ngày nay chúng ta có thể gọi tinh thần thế gian - theo nghĩa đen - là "sức mạnh của không trung", bởi vì nó lan truyền trước hết trên không trung qua các phương tiện truyền thông ảo. Schlier viết: "Ðây là một tinh thần có mãnh lực lịch sử to lớn, mà cá nhân khó có thể thoát ra. Chúng ta tuân theo tinh thần chung và coi đó là điều hiển nhiên. Hành động, suy nghĩ hoặc nói điều gì đó chống lại tinh thần này đều bị coi là vô nghĩa hoặc thậm chí là bất công hoặc tội ác. Và rồi, chúng ta không còn dám đối diện với các sự vật, tình huống, và nhất là đời sống theo một cách khác với cách mà tinh thần đó thể hiện... Ðặc điểm của tinh thần này là diễn giải thế giới và sự tồn tại của con người theo cách riêng của nó" [7].

Ðây là điều mà chúng ta gọi là "thích ứng với tinh thần thời đại". Bài học đạo đức trong bài Così fan tutte của Mozart. Hôm nay chúng ta có một hình ảnh mới để mô tả hành động bào mòn của tinh thần thế gian, đó là virus máy tính. Theo những gì tôi biết, virus là một chương trình được thiết kế độc hại, xâm nhập vào máy tính theo những cách thế không ngờ tới nhất (trao đổi e-mail, trang web...), và một khi xâm nhập vào bên trong, virus này sẽ gây nhầm lẫn hoặc chặn các hoạt động bình thường, do đó, làm thay đổi cái gọi là "hệ điều hành".

Tinh thần thế gian cũng hành động theo cách tương tự. Nó thâm nhập vào chúng ta qua hàng ngàn kênh, giống như không khí chúng ta hít thở, và khi vào bên trong, nó thay đổi mô hình hoạt động của chúng ta: nó thay thế mô hình "Ðức Kitô" bằng mô hình "thế gian". Thế gian cũng có "ba ngôi", tức là ba vị thần hay thần tượng để tôn thờ: lạc thú, quyền lực, và tiền bạc. Tất cả chúng ta đều lấy làm tiếc về những thảm họa mà chúng gây ra cho xã hội, nhưng liệu chúng ta có chắc rằng, ở quy mô nhỏ bé của mình, bản thân chúng ta hoàn toàn miễn nhiễm với những vị thần ấy chăng?

Niềm an ủi lớn nhất của chúng ta trong cuộc chiến chống lại thế gian bên ngoài và thế gian bên trong chúng ta là biết rằng Ðức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta bằng những lời mà Người đã cất lên trước khi từ biệt các môn đệ của mình:

"Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con" (Ga 17: 15-20).

- - - - - - - - - - - - - - - - -

1. Terullianus, Apologeticum 39,9: "ad lucem expavescentes véritatis".

2. Thomas Aquinas, S.Th., I, q. 2, a. 2 ad 1.

3. S. Freud, Civilization and Its Discontents, IV.

4. G. Lessing, Eine Duplik, I, in Werke 3, Zurich 1974, p.149.

5. See Inferno, XXVI, 125: "We of the oars made wings for our mad flight" (trans. Henry Wadsworth Longfellow).

6. Evagrius Ponticus, De oratione, 61 (PG 79, 1180).

7. Xem Clement Al., Stromata, 111, 15 (GCS, 52, p. 242, 2); A. Resch, Agrapha, 48 (TU, 30, 1906, p. 68).

8. H. Schlier, in "Geist und Leben 31 (1958), pp. 173-183

 

(Source: CantalamessaIl Sono La luce del mondo - Seconda Predica Quaresima 2024)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page