Phần I

Bức Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI

gởi cho Giáo Hội tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa

 

Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines

 

Phần I trong bức thư của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI gởi cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc.

(Radio Veritas Asia 1/07/2007) - Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta bắt đầu đọc phần thứ nhất bức thư của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI gởi cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc, có tựa đề như sau: "Hoàn cảnh của Giáo Hội: những khía cạnh thần học". Lời tựa này lưu ý chúng ta rằng đây không phải chỉ là một mô tả đơn thuần về hoàn cành của giáo hội công giáo tại Trung Quốc mà thôi, nhưng đây là một mô tả có đi kèm theo với những suy tư thần học về hoàn cảnh đó. Câu hỏi mà Ðức Thánh Cha xem ra như muốn đặt ra và trả lời, là: trong hoàn cảnh cụ thể như vậy, người tín hữu của giáo hội công giáo tại Trung Quốc sẽ phải làm gì, sẽ phải sống làm sao, cho đúng với giáo lý của giáo hội công giáo.

Phần thứ nhất này gồm có 7 số, từ số 3 cho đến hết số 9, bàn về những điểm, hay đúng hơn "những vấn đề" được đặt ra cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc. 7 Số của phần thứ I như sau:

3. Sự toàn cầu hoá, sự hiện đại và chủ thuyết vô thần.

4. Sự sẵn sàng đối thoại trong tinh thần tôn trọng và xây dựng.

5. Sự hiệp thông giữa những giáo hội địa phương trong giáo hội phổ quát.

6. Những căng thẳng và chia rẽ trong nội bộ giáo hội: tha thứ và hoà giải.

7. Những cộng đoàn giáo hội và những cơ quan nhà nước: những tương quan cần được sống trong sự thật và trong tình bác ái.

8. Hàng giám mục Trung Quốc.

9. Việc bổ nhiệm giám mục.

Ðó là những hoàn cảnh và là những vấn đề mà ÐTC muốn nói đến trong trong phần I của Bức Thư, vừa nhắc lại những điểm giáo lý được áp dụng vào trong hoàn cảnh đó.

Trước hết, chúng ta đọc số 3, có tiểu đề là: Sự toàn cầu hoá, sự hiện đại và chủ thuyết vô thần. Trong số 3 này, ÐTC vừa mô tả hoàn cảnh văn hoá, xã hội, kinh tế, và sự tiến bộ thấy được của Trung Quốc hiện nay, và vừa đưa ra lời kêu gọi, hay đúng hơn, nhắc lại điểm giáo lý căn bản rằng các tín hữu của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc cần hiệp nhất với nhau để chu toàn sứ mạng "tái rao giảng Phúc Âm" trong xã hội hiện đại Trung Quốc. ÐTC đã viết như sau, nơi số 3 của Bức Thư:

 

Phần I: Hoàn cảnh của Giáo Hội: những khía cạnh thần học.

3. Sự toàn cầu hoá, sự hiện đại và chủ thuyết vô thần.

Khi chú ý nhìn vào Dân Tộc của anh chị em, một dân tộc nổi bật giữa những dân tộc khác tại Á Châu vì sự sáng ngời của nền văn minh trải dài hàng ngàn năm, với tất cả kinh nghiệm về khôn ngoan, triết học, khoa học và nghệ thuật, tôi vui mừng nhắc đến cách thức dân tộc của anh chị em, nhất là trong thời gian gần đây, đã hướng đến việc đạt cho được những mục tiêu có ý nghĩa về tiến bộ kinh tế - xã hội, vừa thu hút sự chú ý của toàn thế giới.

Như vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã nhấn mạnh, "về phần mình, giáo hội công giáo, với thái độ tôn trọng, cũng nhìn về tiến bộ đáng phục này và về kế hoạch dài hạn và với sự cẩn trọng, giáo hội cống hiến một đóng góp đặc biệt trong việc cổ võ và bảo vệ nhân vị, những giá trị của nhân vị, cổ võ và bảo vệ nền tu đức và ơn gọi siêu việt của nhân vị. Giáo hội hết sức quan tâm đến những giá trị và những mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, cả cho Trung Quốc tân tiến hiện đại, như tình liên đới, hoà bình, công bằng xã hội, việc quản lý sáng suốt hiện tượng toàn cầu hoá" (3).

Sức cố gắng hướng đến sự phát triển cần thiết và được ao ước trên bình diện kinh tế và xã hội, sự mưu tìm mức sống hiện đại, (cố gắng phát triển và mưu tìm mức sống hiện đại) cả hai điều này được đi kèm với hai hiện tượng khác nhau và đối nghịch nhau, nhưng cần được lượng định như nhau, một cách cẩn thận và với tinh thần tông đồ đích thực. Một bên, người ta ghi nhận, nhất là nơi giới trẻ, có gia tăng sự chú ý đến chiều kích thiêng liêng và siêu việt của nhân vị, và từ đó kéo theo quan tâm đến tôn giáo, nhất là kitô giáo. Ðàng khác, người ta lưu ý, cả tại Trung Quốc, khuynh hướng chạy theo chủ thuyết duy vật và chủ thuyết tìm hưởng thụ khoái lạc, mà từ các thành phố lớn được phổ biến rộng ra bên trong đất nước" (4).

Trong hoàn cảnh như thế, trong đó anh chị em được mời gọi sinh sống và hoạt động, tôi muốn nhắc anh chị em nhớ lại tất cả những gì Ðức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh cách mạnh mẽ và cương quyết như sau: công cuộc tái rao giảng phúc âm đòi buộc loan báo Tin Mừng (5) cho con người ngày nay, với ý thức rằng: cũng như trong ngàn năm thứ nhất của kỷ nguyên kitô, Thánh Giá đã được dựng lên tại Âu Châu, rồi trong ngàn năm thứ hai Thánh Giá được dựng lên tại Mỹ Châu và Phi Châu, thì cũng thế trong ngàn năm thứ ba, một mùa gặt đức tin sẽ được thu hoạch tại đại lục á châu bao la và đầy sức sống (6).

"Duc in Altum!" "Hãy ra khơi!" (Lc 5,4). Ngày hôm nay, những lời này vang lên cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy nhớ lại quá khứ với lòng tri ân, hãy sống hiện tại cách mê say, và hãy mở rộng đón nhận tương lai với lòng tín thác: "Chúa Giêsu Kitô vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời!" (Dt 13,8)" (7). Cả tại Trung Quốc, Giáo Hội được mời gọi hãy trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, hãy nhìn về phía trước với niềm hy vọng, hãy đáp ứng một cách tương xứng --- trong việc loan báo Tin Mừng --- với những thách thức mới mà dân chúng Trung Quốc đang phải đương đầu.

Lời Chúa giúp chúng ta, một lần nữa, biết khám phá ý nghĩa nhiệm mầu và sâu xa của cuộc hành trình của Giáo Hội trong thế giới. Thật vậy, một trong những "thị kiến chính của sách Khải Huyền là thị kiến về Chiên Con trong tư thế mở cuốn sách ra; đây là cuốn sách mà trước đó đã được niêm lại bằng bảy dấu ấn mà không ai có thể mở được. Còn tông đồ Gioan thì được trình bày trong thị kiến trong tư thế đang khóc, bởi vì trước đó đã không tìm được ai xứng đáng để mở sách ra và đọc được nó (x. Kh 5,4). Lịch sử nhân loại không thể nào được giải mả, không thể nào được hiểu. Không ai có thể hiểu được nó. Có lẽ tiếng khóc của Gioan trước mầu nhiệm ưu tối của lịch sử nhân loại, nói lên sự ngỡ ngàng của các giáo hội tại á châu, vì thái độ im lặng của Thiên Chúa trước những bách hại mà các giáo hội phải chịu trong giờ phút này. Ðây là một sự ngỡ ngàng mà trong đó có phản ánh sự khiếp sợ của chúng ta trước những khó khăn trầm trọng, những hiểu lầm và những thù nghịch mà giáo hội phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới. Ðó là những đau khổ mà giáo hội không đáng phải chịu, cũng như Chúa Giêsu không đáng phải chịu hình khổ như vậy. Những đau khổ đó biểu lộ sự độc ác của con người khi họ chiều theo những gợi ý của sự dữ, nhưng cũng biểu lộ tài điều khiển của Thiên Chúa trên các biến cố" (8).

Ngày nay cũng như trong quá khứ, rao giảng Phúc âm có nghĩa là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại; Ngài là Con người mới, đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài cho phép con người bước vào trong chiều kích mới, trong đó lòng nhân từ và tình thương, cả đối với kẻ thù, cả hai đều làm chứng cho chiến thắng của Thập Giá trên mọi sự yếu đuối và khốn cùng của con người.

Trong đất nước của anh chị em, việc rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và sống lại, sẽ là điều có thể được trong mức độ anh chị em biết thực hiện những dấu chỉ của tình thương và hiệp nhất, cùng với lòng trung thành với Tin Mừng, trong sự hiệp thông với Người Kế Vị Thánh Phêrô và hiệp thông với giáo hội toàn cầu. "Như Thầy đã yêu thương chúng con, chúng con cũng phải yêu thương nhau. Từ dấu này mà tất cả sẽ biết rằng chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau.. Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ được nên một trong chúng ta, ngõ hầu thế gian tin rằng cha đã sai con." (Gn 13, 34-35; 17,21).

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta đọc tiếp số 4 của Thư ÐTC gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc. ÐTC đề ra nhưng nguyên tắc căn bản để giải quyết sự xung đột trong tương quan giữa Nhà Nước Trung Quốc và Giáo Hội Công Giáo. Trước hết, ÐTC kêu gọi hai bên đối thoại trong tinh thần tôn trọng nhau và xây dựng. Giáo Hội tôn trọng thẩm quyền dân sự hợp pháp, nhưng đồng thời đòi được tự do thực hành đức tin, yêu cầu Nhà Nước tôn trọng tự do tôn giáo hoàn toàn. Ðây, chúng ta hãy đọc số 4 của bức thư như sau:

 

4. Sẵn sàng đối thoại trong tinh thần tôn trọng và xây dựng.

Như là chủ chăn của toàn thể giáo hội, tôi muốn nói lên lòng biết ơn mãnh liệt đối với Chúa, vì chứng tá đầy đau khổ cho thấy sự trung thành của cộng đoàn công giáo trung quốc trong những hoàn cảnh thật sự khó khăn. Ðồng thời tôi cảm thấy khẩn thiết phải củng cố trong đức tin những người công giáo trung quốc và cổ võ sự hiệp nhất của họ, bằng những phương thế riêng của giáo hội; đây là bổn phận sâu xa và không thể chối từ được và là một biểu lộ tình yêu thương của một người cha nơi tôi.

Tôi hết sức quan tâm theo dõi những thăng trầm của toàn thể dân tộc trung hoa, mà tôi hết sức đánh giá cao và có những tâm tình thân thiện, cho đến mức ước mong "được mau nhìn thấy thiết lập những con đường cụ thể để liên lạc và cộng tác giữa Toà Thánh và Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc", bởi vì tình bằng hữu được nuôi dưỡng bởi những tiếp xúc, bởi những chia sẻ tâm tình trong những hoàn cảnh vui buồn, bởi tình liên đới và bởi việc trao đổi sự trợ giúp" (9). Chính trong viễn tượng như thế mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã nói thêm rằng: "Không phải là một bí mật cho ai cả, việc Toà Thánh, nhân danh toàn thể giáo hội công giáo và - theo tôi nghĩ - vì lợi cho toàn thể nhân loại, (việc Toà Thánh) cầu mong mở ra một khoảng rộng để đối thoại với những Thẩm Quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc; trong khoảng rộng để đối thoại này, một khi đã vượt qua được những hiểu lầm của quá khứ, người ta có thể làm việc chung cho thiện ích của dân tộc Trung hoa và cho nền hoà bình thế giới." (10). Tôi ý thức rằng việc bình thường hoá những tương quan với Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, đòi hỏi thời gian và giả thiết phải có thiện chí của hai bên. Từ phía mình, Toà Thánh luôn trong tình trạng sẵn sàng đón nhận những thương thuyết cần thiết để vượt qua giây phút khó khăn hiện tại.

Thật vậy, tình trạng nặng nề này do những hiểu lầm và những sự không thông hiểu nhau, không có lợi cho Thẩm quyền của Trung Quốc và cũng không có lợi gì cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc. Như Ðức Gioan Phaolô II đã tuyên bố, khi nhắc lại tất cả những gì Cha Matteo Ricci ngày xưa đã viết từ Bắc Kinh (11), "giáo hội công giáo ngày hôm nay không yêu cầu Trung Quốc và những Thẩm quyền chính trị ban cho bất cứ đặc ân nào, nhưng chỉ xin một điều duy nhất là có thể mở lại đối thoại, để đạt đến một tương quan được dệt nên bởi sự tôn trọng lẫn nhau và bởi sự hiểu biết sâu xa" (12). Ước gì Trung Quốc biết được điều này rằng: giáo hội công giáo có sẵn đề nghị muốn cống hiến một lần nữa việc phục vụ khiêm tốn và không vụ lợi, trong những gì thuộc khả năng của giáo hội, để làm ích cho những người công giáo trung hoa và để làm ích cho tất cả mọi người dân sinh sống tại Trung Quốc. Còn về những gì có liên quan đến những tương quan giữa cộng đoàn chính trị và giáo hội tại Trung Quốc, thì nên nhớ lại giáo huấn sáng chói của Công Ðồng Vaticanô II như sau: "Giáo Hội, xét vì tác vụ và vì khả năng chuyên biệt của mình, không đồng hoá mình như là một cộng đồng chính trị, và cũng không liên kết với bất cứ hệ thống chính trị nào; giáo hội là dấu chỉ và là sự bảo vệ cho tính cách siêu việt của con người." Và Ðức Gioan Phaolô II tiếp tục như sau: "Trong lãnh vực riêng của mình, cộng đoàn chính trị và giáo hội độc lập với nhau và tự quản. Tuy nhiên, cả hai, dù dưới danh hiệu khác nhau, đều phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của cùng những người như nhau. Cả hai sẽ chu toàn công việc phục vụ của mình, để làm ích cho tất cả, trong cách thức càng hữu hiệu, nếu cả hai càng vun trồng sự cộng tác với nhau, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh về nơi chốn và thời gian" (13).

Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc có sứ mạng không phải thay đổi cơ cấu hoặc thay đổi việc quản trị đất nước, nhưng có sứ mạng rao giảng cho con người biết Chúa Kitô, Ðấng cứu rỗi thế gian, dựa trên sức mạnh của Thiên Chúa, khi chu toàn công việc tông đồ của mình. Như Tôi đã nhắc lại trong thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", "Giáo Hội không thể và cũng không nên dành lấy trong tay công cuộc tranh đấu chính trị để thực hiện một xã hội công bằng hơn có thể. Giáo Hội không thể và không nên đặt mình vào chổ của Nhà nước. Nhưng giáo hội cũng không thể và không nên đứng bên lề trong cuộc chiến cho công bằng. Giáo Hội cần phải nhập cuộc trong cuộc tranh đấu này, qua bởi con đường lý luận theo lý trí và giáo hội phải thức tỉnh những sức mạnh tinh thần; nếu không có những sức mạnh tinh thần này, thì sự công bằng không thể nào được thể hiện và phát triển, một sự công bằng luôn đòi hỏi cả những hy sinh từ bỏ. Xã hội công bằng không thể là công việc của Giáo Hội, nhưng cần được thực hiện bởi chính trị. Tuy nhiên, hoạt động cho công bằng, và làm cho trí khôn và ý chí cởi mở chấp nhận những đòi hỏi của điều thiện, đó là quan tâm sâu xa của giáo hội." (14)

Theo ánh sáng của những nguyên tắc trên, giải pháp cho những vấn đề hiện có, không thể nào được kiếm tìm theo con đường của sự xung đột thường xuyên với những Thẩm Quyền Dân Sự hợp pháp; đồng thời không thể nào chấp nhận một sự "nuông chiều theo" những Thẩm Quyền dân sự, khi những thẩm quyền này xen mình không đúng vào những việc liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Những thẩm quyền dân sự ý thức rõ rằng Giáo Hội, trong giáo huấn của mình, kêu gọi các tín hữu hãy là những công dân tốt, hãy là những cộng tác viên đầy tinh thần tôn trọng và tích cực, để thực hiện công ích của đất nước họ, nhưng cũng rõ ràng rằng Giáo hội yêu cầu Nhà Nước hãy bảo đảm cho những công dân công giáo này được thực thi hoàn toàn đức tin của họ, trong sự tôn trọng sự tự do tôn giáo đích thực.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Trên đây, chúng ta đọc số 4 của bức thư, trong đó ÐTC xác nhận Toà Thánh luôn sẵn sàng mở liên lạc với Trung Quốc và trình bày những nguyên tắc căn bản cho mối liên lạc này, như tinh thần đối thoại và tôn trọng nhau, sự tự do tôn giáo hoàn toàn cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc. Sau đây, chúng ta đọc tiếp số 5, trong đó ÐTC nhắc lại giáo lý của giáo hội công giáo về sự hiệp thông giáo hội.

Và một cách cách rõ ràng, ÐTC trình bày về Sự hiệp thông giữa các giáo hội địa phương tại Trung Quốc trong một Giáo hội phổ quát. Không thể nào loại bỏ thừa tác vụ của Ðức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô và thừa tác vụ của giám mục, người kế vị các tông đồ, ra khỏi sự hiệp thông này. ÐTC đã dùng cụm từ thật ý nghĩa: "Sự hiệp thông giữa những giáo hội địa phương trong Giáo Hội phổ quát ".

ÐTC đã viết như sau:

 

5. Sự hiệp thông giữa những giáo hội địa phương trong Giáo Hội phổ quát.

Hỡi Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, một đoàn chiên nhỏ hiện diện và hoạt động trong khung cảnh rộng mênh mông của một dân tộc đông đúc đang hành trình trong lịch sử, những lời sau đây của Chúa vang lên đầy sức khích lệ và thách thức biết là chừng nào: "Ðừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ, bởi vì Cha trên trời đã vui lòng ban cho anh chị em Nước Trời" (Lc 12,32)! "Chúng con là muối đất... là ánh sáng thế gian"; vì thế, "ước gì được chiếu lên ánh sáng của chúng con trước mặt mọi người, ngõ hầu họ nhìn thấy những việc làm tốt của chúng con, và ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5,13.14.16).

Trong Giáo hội công giáo tại Trung Quốc, có hiện diện Giáo hội phổ quát, là Giáo Hội của Chúa Kitô, nghĩa là cộng đoàn phổ quát những môn đệ Chúa --- mà trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Như anh chị em biết, sự hiệp nhất sâu xa, một sự hiệp nhất liên kết lại với nhau những giáo hội địa phương tại Trung Quốc và đặt những giáo hội địa phương này trong sự hiệp thông sâu xa với tất cả mọi giáo hội địa phương khác, rải rác trên khắp thế giới, --- (sự hiệp nhất sâu xa này) được ăn rễ trong đức tin và trong bí tích rửa tội, nhất là trong bí tích Thánh Thể và trong hàng giám mục (15). Và sự hiệp nhất của hàng giám mục, --- mà "vị giáo hoàng Roma, trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình và thường hằng" (16) --- (sự hiệp nhất này của hàng giám mục) được tiếp tục qua các thế kỷ, nhờ qua sự tiếp nối tông đồ và là nền tảng cho Giáo Hội mọi thời đại được luôn giống với Giáo hội đã được Chúa Kitô thiết lập, trên nền tảng tông đồ Phêrô và trên các tông đồ khác (17). Giáo lý công giáo dạy rằng giám mục là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong giáo hội địa phương được trao phó cho thừa tác vụ mục vụ giám mục của ngài (18). Nhưng trong mọi giáo hội địa phương, --- ngõ hầu được trọn vẹn là giáo hội, --- thì phải có sự hiện diện của quyền hành tối cao của giáo hội, nghĩa là của giám mục đoàn cùng với thủ lãnh là vị giáo hoàng Roma, và không bao giờ mà không có ngài. Vì thế, thừa tác vụ của người kế vị thánh Phêrô thuộc về yếu tính của mọi giáo hội địa phương "xét từ bên trong" (19). Ngoài ra, sự hiệp thông của tất cả mọi Giáo hội địa phương trong một Giáo hội công giáo duy nhất, và do đó, sự hiệp thông có trật tự trong phẩm trật của tất cả các giám mục, những người kế vị các Tông Ðồ, với người kế vị Thánh Phêrô, là bảo đảm cho sự hiệp nhất trong đức tin và trong đời sống của tất cả mọi người công giáo. Vì thế, điều cần thiết, đối với sự hiệp nhất của Giáo Hội trong từng quốc gia, là mọi giám mục được hiệp thông với các giám mục khác, và tất cả các giám mục được hiệp thông hữu hình và cụ thể với Ðức giáo hoàng.

Không ai trong giáo hội là người khách lạ, nhưng tất cả là "công dân" thành phần của cùng một Dân, là thành phần của cùng một Nhiệm Thể Chúa Kitô. Mối giây hiệp thông bí tích là bí tích Thánh Thể, được bảo đảm bởi thừa tác vụ của các giám mục và của những linh mục (20).

Trọn cả Giáo hội tại Trung Quốc, được mời gọi sống và biểu lộ sự hiệp nhất này trong một tu đức hiệp thông phong phú hơn; ước gì tu đức hiệp thông này, --- tuỳ theo những hoàn cảnh phức tạp cụ thể trong đó cộng đồng công giáo phải trải qua, --- được tăng trưởng trong sự hiệp thông phẩm trật hài hoà. Vì thế, các chủ chăn và tín hữu đều được mời gọi bảo vệ và duy trì điều thuộc về giáo lý và truyền thống của Giáo Hội.

 

Quý vị và các bạn thân mến, Sau khi đã nhắc lại giáo lý của Giáo Hội về sự hiệp thông giáo hội, ÐTC trình bày giải pháp cho Những căng thẳng và chia rẽ trong nội bộ giáo hội tại Trung Quốc. Giải pháp đó không thể là gì khác hơn là sự tha thứ cho nhau và hoà giải với nhau. ÐTC đã viết nơi số 6 của Bức Thư, như sau:

 

Số 6: Những căng thẳng và chia rẽ trong nội bộ giáo hội: tha thứ và hoà giải.

Khi ngỏ lời với toàn thể giáo hội qua tông thư "Bước vào ngàn năm mới", vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã quả quyết rằng "trách vụ to lớn, --- trong đó cần có một dấn thân nhất quyết và theo chương trình đã soạn, trên bình diện giáo hội phổ quát và các giáo hội địa phương, --- rằng "trách vụ to lớn đó" là trách vụ hiệp thông (koinonia); trách vụ này nhập thể và biểu lộ chính yếu tính của mầu nhiệm giáo hội. Sự hiệp thông là hoa trái và là sự biểu lộ của tình thương phát xuất từ con tim của Thiên Chúa Cha hằng hữu, được đổ tràn vào trong chúng ta nhờ qua Thánh Thần, mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta (x. Roma 5,5), để làm cho tất cả chúng ta trở nên "một con tim và một linh hồn" (TÐCV 4,32). Chính khi thực hiện sự hiệp thông tình yêu này mà Giáo Hội được biểu lộ như là "bí tích", nghĩa là như "dấu chỉ và phương tiện của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại." Những lời của Chúa về vấn đề này, là quá rõ ràng để có thể giảm bớt tầm mức của những lời đó. Biết bao điều, cả trong thế kỷ mới đến này, sẽ là điều cần thiết cho cuộc hành trình lịch sử của Giáo Hội; nhưng nếu thiếu đi tình bác ái (agapê), thì tất cả sẽ vô ích. Chính thánh tông đồ Phaolô là người nhắc cho chúng ta điều nầy trong bài ca Ðức bác ái, như sau: nếu giả như chúng ta nói được những ngôn ngữ của con người và những ngôn ngữ của các thiên thần, và cả khi chúng ta có một đức tin "chuyển núi dời non", mà chúng ta lại không có bác ái, thì tất cả sẽ là như không (x. 1Co 13,2). Quả thật, đức bác ái là "con tim" của Giáo Hội" (21).

Những chỉ dẫn trên, liên quan đến chính bản chất của Giáo Hội phổ quát, có một ý nghĩa đặc biệt cho Giáo Hội tại Trung Quốc. Thật vậy, không thiếu những vấn đề mà giáo hội đang phải đương đầu, để vượt qua những căng thẳng, những chia rẽ và những kết án, bên trong nội bộ giáo hội cũng như trong những tương quan với xã hội dân sự trung hoa.

Về vấn đề này, trong năm vừa qua, khi nói về Giáo Hội sơ khai, Tôi đã lưu ý rằng "cộng đoàn những môn đệ ngay từ đầu cảm nghiệm không những niềm vui của Thánh Thần, không những biết đến ân sủng sự thật và tình thương, nhưng còn biết đến sự thử thách, kết thành do bởi nhất là những tương phản về những sự thật đức tin, kéo theo hậu quả là những rạn nứt trong sự hiệp thông. Cũng như sự hiệp thông của tình yêu có mặt ngay từ khởi đầu và sẽ còn cho đến cùng (x. 1 Gn 1,1tt), thì cũng thế, buồn thay, ngay từ đầu cũng có mặt sự chia rẽ. Chúng ta không nên ngạc nhiên sự chia rẽ cũng có mặt cả ngày hôm nay (...). Do đó, trong những biến cố của thế trần và trong những yếu đuối của Giáo Hội, luôn có nguy hiểm mất đức tin, và như thế cũng có nguy hiểm mất tình thương và tình huynh đệ. Và từ đó, bổn phận rõ ràng của kẻ tin vào Giáo Hội của tình thương và muốn sống trong giáo hội của tình thương, là nhìn nhận nguy hiểm này." (22)

Lịch sử của Giáo Hội dạy chúng ta rằng không thể biểu lộ một sự hiệp thông đích thực, nếu không có cố gắng hoà giải (23). Thật vậy, sự thanh luyện ký ức, sự tha thứ cho kẻ đã làm điều xấu, sự quên đi những lỗi lầm phải chịu và sự làm hoà lại các tâm hồn trong tình thương, cần được thực hiện nhân danh Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại; tất cả những điều trên có thể đòi buộc ta vượt qua những lập trường hay những cái nhìn riêng cá nhân, phát sinh do bởi những kinh nghiệm khổ đau hay khó khăn, nhưng đó là những bước khẩn thiết cần được thực hiện để gia tăng và biểu lộ những mối giây hiệp thông giữa các tín hữu và những chủ chăn của Giáo Hội tại Trung Quốc.

Vì thế, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã ngỏ lời với anh chị em nhiều lần, để khẩn thiết mời gọi anh chị em hãy tha thứ và giải hoà. Về vấn đề nầy, tôi muốn nhắc lại một đoạn trích từ sứ điệp mà ngài đã gởi đến anh chị em dịp sắp đến Năm Thánh 2000 như sau: "Khi anh chị em chuẩn bị cử hành Ðại Năm Thánh, thì anh chị em hãy nhớ rằng trong truyền thống kinh thánh, một giây phút như thế luôn có mang theo sự bắt buộc phải tha đi những món nợ nhau người nầy tha cho người kia, phải đền bù những bất công đã gây ra và giải hoà với người lân cận. Niềm vui lớn đã được loan báo cho anh chị em, "niềm vui được chuẩn bị cho các dân tộc": đó là tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa Cha; đó là ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện. Trong mức độ anh chị em sẵn sàng chấp nhận lời rao giảng vui tươi này, anh chị em có thể lưu truyền niềm vui đó, bằng đời sống của mình, cho tất cả mọi người nam nữ gần bên. Ao ước nồng nhiệt của Tôi là anh chị em tuân theo những gợi ý của Chúa Thánh Thần trong nội tâm mình, vừa tha thứ cho nhau tất cả những gì cần được tha thứ, xích lại gần nhau, chấp nhận lẫn nhau, vượt qua được những rào cản, để tiến qua khỏi tất cả những gì có thể gây chia rẽ. Anh chị em đừng quên những lời của Chúa Giêsu trong bửa Tiệc Ly như sau: "Do bởi dấu này mà tất cả sẽ biết chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau" (Gn 13,35). Tôi đã vui mừng biết được rằng anh chị em muốn dâng lên, --- như món quà quý giá nhất cho việc cử hành Ðại Năm Thánh --- (dâng lên) món quà sự hiệp nhất giữa anh chị em với nhau và với người kế vị Thánh Phêrô. Một việc như thế không thể là gì khác hơn là hoa trái của Thánh Thần, Ðấng hướng dẫn Giáo Hội trên những con đường khó khăn của sự hoà giải và hiệp nhất" (24).

Tất cả chúng ta đều ý thức rằng con đường này không thể nào thực hiện được liền ngay vào ngày hôm sau, nhưng anh chị em hãy tin chắc rằng toàn thể Giáo Hội sẽ dâng lên những lời khẩn nguyện cho anh chị em, để đạt đến mục tiêu vừa nói trên.

Anh chị em hãy biết rằng con đường hoà giải anh chị em đang đi, được nâng đỡ bởi mẫu gương và bởi lời cầu nguyện của "biết bao chứng nhân đức tin" đã phải đau khổ và đã tha thứ, vừa hiến dâng đời sống họ cho tương lai của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Chính cuộc sống của họ là lời chúc lành liên lỉ cho anh chị em nơi Cha trên trời, và việc tưởng nhớ đến các ngài chắc chắn sẽ làm trổ sinh những hoa trái phong phú.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta đọc số 7 của Thư ÐTC gởi cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc nói về tương quan đúng cần có giữa Những cộng đoàn giáo hội và các cơ quan nhà nước. ÐTC mong muốn sao cho những tương quan đó được xây trên sự thật và được thể hiện trong tình bác ái. ÐTC đã viết như sau:

 

7. Những cộng đoàn giáo hội và các cơ quan nhà nước: những tương quan cần được sống trong sự thật và trong tình bác ái.

Một chú ý phân tích về hoàn cảnh đau khổ như vừa được nhắc lại trên đây với những đối nghịch rõ nét (x. số 6), và có liên hệ đến giáo dân và chủ chăn, làm nổi bật, giữa nhiều nguyên nhân khác nhau, (làm nổi bật) vai trò có ý nghĩa được các cơ quan thi hành; những cơ quan này đã được áp đặt ra như là những cơ quan có trách nhiệm chính về sinh hoạt của cộng đoàn công giáo. Thật vậy, cả ngày nay nữa, việc công nhận của những cơ quan nói trên là tiêu chuẩn để tuyên bố một cộng đoàn, một người hay một nơi tôn giáo, là hợp pháp, và do đó, là "chính thức". Tất cả những điều này đã gây ra những chia rẽ giữa hàng giáo sĩ cũng như giữa các tín hữu. Ðây là hoàn cảnh tuỳ thuộc trước hết vào những yếu tố bên ngoài Giáo Hội, nhưng đã có ảnh hưởng nghiêm trọng trên hành trình của giáo hội, bằng việc mở rộng cửa cho những nghi ngờ, những tố cáo lẫn nhau và những lời lên án; đây là một sự yếu kém đáng lo ngại của cộng đồng giáo hội.

Còn đối với những gì có liên hệ đến vấn đề tế nhị về những tương quan cần duy trì với những cơ quan của nhà nước, thì quả thật đáng chúng ta lưu ý đến lời mời gọi của Công Ðồng Vaticanô II là hãy vâng theo lời nói và cách thức hành động của Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, "vì không muốn trở thành vị thiên sai chính trị và là kẻ thống trị với sức mạnh (25), nên đã thích được gọi là "Con Người", là Ðấng đã đến để phục vụ và hy sinh chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10,45). Ngài trình diện chính mình như là người tôi tớ trọn hảo của Thiên Chúa (26), Ðấng không bẻ gảy cây sậy bị giập, và không thổi tắt ngọn đèn sắp tàn (Mt 12,20). Chúa đã nhìn nhận thẩm quyền dân sự và những quyền lợi của thẩm quyền này, khi ra lệnh nộp thuế cho Cêsar; nhưng Ngài cũng cảnh tỉnh rõ ràng là phải tôn trọng quyền lợi cao hơn của Thiên Chúa: "Hãy trả lại cho Cêsar những gì thuộc về Cêsar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa." (Mt 22,21). Cuối cùng, Chúa đã hoàn tất mạc khải của Ngài, vừa làm trọn công việc cứu rỗi trên thập giá, mà qua đó Ngài mang lại cho con người ơn cứu rỗi và sự tự do thật. Ngài làm chứng cho sự thật (27), nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt sự thật trên những kẻ chống đối. Nước Ngài không được bênh vực bằng gươm giáo (28), nhưng được thiết lập, bằng việc làm chứng và lắng nghe Sự Thật, được lan rộng nhờ tình yêu thương, mà nhờ đó Chúa Kitô, khi bị treo lên Thập Giá, lôi kéo con ngưòi đến với Ngài" (x. Gn 12,32) " (29).

Sự thật và tình thương là hai cột trụ nâng đỡ đời sống của cộng đoàn kitô. Vì thế Tôi đã nhắc rằng "Giáo Hội của tình thương cũng là giáo hội của sự thật, được hiểu trước hết như là sự trung thành với Tin Mừng đã được Chúa Giêsu trao phó cho những ai thuộc về Người.... Nhưng, để sống trong sự hiệp nhất và trong bình an, gia đình của những con cái Thiên Chúa cần đến Ðấng gìn giữ giáo hội trong sự thật và hướng dẫn giáo hội với sự phân định khôn ngoan và có uy tín; đây là điều thường được gọi là việc thi hành thừa tác vụ của các Tông Ðồ. Và, ở đây, chúng ta đi đến một điểm quan trọng. Giáo Hội là hoàn toàn của Chúa Thánh Thần, nhưng có một cơ cấu, có sự tiếp nối tông đồ; và sự tiếp nối tông đồ này có trách nhiệm bảo đảm cho việc Giáo Hội còn trung thành với sự thật do Chúa Kitô trao ban, mà từ sự thật này nảy sinh khả năng sống yêu thương.... Các Thánh Tông Ðồ và những kẻ kế vị các ngài, là những người gìn giữ và làm chứng có uy tín, cho "kho tàng sự thật" được ký gởi cho Giáo Hội, vừa là những tác viên của tình thương bác ái: hai điều này luôn đi đôi với nhau.... Sự thật và tình thương là hai yếu tố của cùng một hồng ân đến từ Thiên Chúa và nhờ thừa tác vụ tông đồ mà được lưu giữ trong Giáo Hội và được lưu truyền đến với chúng ta ngày nay!" (30) Vì thế, Công Ðồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng "sự tôn trọng và tình thương phải bao gồm cả những ai suy nghĩ và hành động một cách khác với chúng ta, trong những lãnh vực xã hội, chính trị, và cả tôn giáo nữa, bởi vì nếu chúng ta, --- với sự chân thành và tình bác ái, --- càng thông cảm từ thâm tâm với cách thức suy tưởng của họ, thì chúng ta sẽ càng dễ dàng thiết lập đối thoại với họ". Nhưng cũng chính Công Ðồng Vaticanô II cảnh tỉnh chúng ta rằng: "tình bác ái này và sự dễ thương này, không có cách nào để làm cho chúng ta trở nên lãnh đạm với sự thật và điều tốt." (31) Nhìn vào "ý định nguyên thuỷ của Chúa Giêsu" (32), chúng ta thấy rõ ràng rằng: lý do được nêu ra của vài cơ quan, do Nhà Nước muốn áp đặt và xa lạ với cơ cấu của Giáo Hội, nhằm nắm quyền trên các giám mục và nhằm hướng dẫn đời sống của cộng đồng giáo hội, (rằng lý do được đưa ra đó) là điều không phù hợp với giáo lý công giáo, mà theo đó, Giáo Hội là "tông truyền", như Công Ðồng Vaticanô II đã dạy.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta tiếp tục đọc phần còn lại của số 7 Bức Thư của ÐTC gởi cho Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Nơi số 7 này, ÐTC nói về tương quan giữa những cộng đoàn giáo hội địa phương với các cơ quan nhà nước. ÐTC trình bày giáo lý của giáo hội về sự độc lập của giáo hội, một thực tại được Chúa Giêsu Kitô thiết lập. Và ÐTC trả lời cho câu hỏi có thể chấp nhận hay không quyền của các cơ quan dân sự nhà nước trên các cộng đoàn giáo hội. Ðây kính mời quý vị và các bạn theo dõi những trình bày của ÐTC về vấn đề "quyền công nhận của cơ quan nhà nước" để một cộng đoàn giáo hội, một con người, hay một cơ cấu của giáo hội trở nên "chính thức" trước mặt nhà nước. ÐTC đã viết như sau:

 

Giáo Hội là tông truyền: "tông truyền do bởi nguồn gốc của mình, vì được thiết lập trên "nền tảng các tông đồ" (Eph 2,20); tông truyền do bởi giáo huấn của mình, là giáo huấn của các tông đồ; tông truyền do bởi cơ cấu của mình, xét vì được giáo huấn, được thánh hoá và được cai quản, cho đến khi Chúa Kitô trở lại, do bởi các tông đồ, qua những người kế vị các tông đồ, tức các giám mục, trong sự hiệp thông với người kế vị thánh Phêrô" (33). Như thế, trong mỗi giáo hội địa phương, chỉ "giám mục giáo phận nhân danh Chúa chăn dắt đoàn chiên được trao phó cho, trong tư cách là vị mục tử dành riêng cho cộng đoàn đó, có thường quyền và trực tiếp liền ngay" (34), và, trên bình diện quốc gia, chỉ hội đồng giám mục mới có thể đặt ra những định hướng mục vụ, có hiệu lực đúng, cho toàn thể cộng đoàn công giáo của đất nước liên hệ". (35)

Mục tiêu được công bố công khai của những cơ quan nhà nước nói trên nhắm thực hiện "những nguyên tắc về độc lập và tự trị, tự quản lý và điều hành cách dân chủ trên giáo hội" (36), là điều không thể hoà hợp được với giáo lý công giáo mà ngay từ đầu các Kinh Tin Kính tuyên xưng Giáo Hội "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền".

Theo ánh sáng của những nguyên tắc vừa được nhắc đến trên đây, những chủ chăn và các tín hữu giáo dân sẽ nhớ rằng việc rao giảng Phúc Âm, việc dạy giáo lý và công việc từ thiện, sinh hoạt phụng vụ và tôn thờ, những chọn lựa mục vụ, tất cả đều chỉ thuộc thẩm quyền của các giám mục cùng chung với các linh mục của các ngài, trong sự liên tục thường hằng của đức tin, được lưu truyền bởi các Tông Ðồ trong Kinh Thánh và trong Thánh Truyền, và do đó không thể nào tuỳ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.

Trước hoàn cảnh khó khăn như vừa trình bày trên đây, không ít thành phần của cộng đoàn công giáo thắc mắc về việc công nhận từ phía Thẩm Quyền dân sự --- một sự công nhận cần thiết để có thể hoạt động công khai --- cách nào đó gây hại cho sự hiệp thông với giáo hội toàn cầu. Tôi biết rõ rằng vấn đề phức tạp này làm cho tâm hồn của các chủ chăn và các tín hữu phải lo âu đau khổ. Về vấn đề này, trước hết tôi cho rằng bổn phận duy trì trung kiên kho tàng đức tin và sự hiệp thông bí tích và có tính cách phẩm trật, tự nó, không đối nghịch với việc đối thoại với các Thẩm Quyền về những khía cạnh thuộc lãnh vực dân sự, trong sinh hoạt của cộng đoàn giáo hội. Người ta không thấy những khó khăn riêng biệt nào, để chấp nhập việc công nhận từ phía những thẩm quyền dân sự, với điều kiện là việc công nhận này không kéo theo việc chối bỏ những nguyên tắc không thể từ bỏ được của đức tin và của sự hiệp thông trong giáo hội. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp cụ thể, --- nếu không phải là gần như luôn luôn, --- trong tiến trình để được công nhận, thì có sự can thiệp của những cơ quan bắt buộc những người liên hệ phải có những thái độ, phải làm những công việc và phải có những dấn thân nghịch lại với những mệnh lệnh của lương tâm của họ như là người công giáo. Do đó, tôi hiểu rằng trong những điều kiện và hoàn cảnh như vậy thì quả thật là khó để quyết định đâu là sư chọn lựa đúng phải thực hiện. Vì thế, Toà Thánh, --- sau khi đã tái xác nhận những nguyên tắc, --- thì dành sự quyết định cho từng giám mục; ngài là kẻ tốt nhất, sau khi tham khảo hàng giáo sĩ của mình, có đủ điều kiện để biết hoàn cảnh địa phương, cân nhắc những khả thể cụ thể của sự chọn lựa, và thẩm định những hậu quả có thể, từ bên trong cộng đoàn giáo phận. Có thể xảy ra trường hợp quyết định cuối cùng không gặp được sự đồng thuận của tất cả linh mục và giáo dân. Tuy nhiên, Tôi cầu chúc cho quyết định cuối cùng đó được tiếp nhận, cho dù với đau khổ, và tôi mong sao còn được duy trì sự hiệp nhất của cộng đoàn giáo phận với vị chủ chăn bản quyền.

Cuối cùng, điều tốt là các giám mục và linh mục, với tâm hồn mục tử đích thực, hãy làm sao trong mọi cách để không tạo ra những hoàn cảnh gây gương mù, nhưng nắm bắt những dịp để huấn luyện lương tâm của tín hữu, với sự chú ý đặc biệt dành cho những kẻ yếu kém nhất: tất cả cần được sống trong sự hiệp thông và trong sự thông cảm huynh đệ, vừa tránh đi những phán đoán và những kết án lẫn nhau. Cả trong trường hợp này, người ta cần lưu tâm rằng, ----nhất là khi thiếu một khoảng rộng thật sự tự do, để đánh giá tính cách luân lý của một hành động, --- thì nên biết một cách kỹ lưỡng những ý định thật sự của đương sự trong cuộc, hơn là sự lỗi phạm khách quan. Do đó, mọi trường hợp cần phải được cân nhắc cách riêng biệt, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta bắt đầu đọc số 8 của phần I của Bức Thư. Nơi số 8 này, ÐTC nói về một trong những vấn đề quan trọng của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Ngay những dòng đầu của số 8, chúng ta thấy rõ vấn đề khó khăn đã được ÐTC đặt ra. ÐTC viết tiếp như sau:

 

8. Hàng Giám Mục Trung Hoa

Trong giáo hội, là Dân Thiên Chúa, những thừa tác viên có chức thánh, --- những kẻ đã được thụ phong đúng cách sau khi đã được học hỏi và huấn luyện tương xứng, --- có bổn phận thi hành trách vụ "giảng dạy, thánh hoá và cai trị". Với sự bổ nhiệm đúng giáo luật đến từ Giám Mục, các giáo dân có thể chu toàn một thừa tác trong giáo hội để lưu truyền đức tin.

Thưa các chư huynh trong hàng giám mục, trong những năm gần đây, vì nhiều lý do khác nhau, chư huynh đã gặp những khó khăn, bởi vì những con người không có chức thánh, và đôi khi còn chưa được rửa tội, lại có quyền kiểm soát và quyết định về những vấn đề quan trọng của giáo hội, kể cả việc bổ nhiệm các giám mục, nhân danh cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau.

Hệ quả là chúng ta gặp phải sự hạ thấp phẩm vị của thừa tác vụ phêrô và thừa tác vụ giám mục, dựa theo một quan niệm về giáo hội, mà theo đó Ðức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục bị nguy hiểm biến thành, trong thực tế, như là những con người không còn sứ vụ và không còn quyền gì cả. Ngược lại, như người ta thường nói, các thừa tác viên phêrô và giám mục là những yếu tố thiết yếu và trở nên thành phần của giáo lý công giáo về cơ cấu bí tích của Giáo Hội. Bản chất này của Giáo Hội là một hồng ân của Chúa Giêsu, bởi vì chính Chúa "là Ðấng đă thiết lập một số môn đệ làm tông đồ, một số khác thì làm tiên tri, những người khác nữa làm nhà rao giảng tin mừng, những kẻ khác nữa làm chủ chăn, làm thầy dạy, để làm cho anh em trở nên có khả năng chu toàn thừa tác vụ, nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, ngõ hầu tất cả chúng ta đều có thể đạt đến sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, có thể đạt đến tình trạng của con người thành toàn trọn hảo, đúng theo mức độ thích hợp với mức trưởng thành trọn vẹn của Chúa Kitô" (Eph 4, 11-13).

Sự hiệp thông và hiệp nhất --- xin cho phép tôi được lặp lại điều này (x. số 5) --- là những yếu tố thiết yếu và không thể tách rời ra của Giáo Hội công giáo: vì thế dự án về một "giáo hội tự trị", trong lãnh vực tôn giáo, tách ra khỏi Toà Thánh, là điều không phù hợp với giáo lý công giáo.

Tôi ý thức rõ về những khó khăn trầm trọng, mà chư huynh phải đương đầu trong hoàn cảnh vừa nói trên đây, để duy trì sự trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với người kế vị thánh Phêrô. Như thánh Phaolô đã quả quyết (x. Roma 8, 35-39), và khi nhắc chư huynh nhớ lại rằng không có khó khăn nào có thể chia tách chúng ta ra khỏi tình yên Chúa Kitô, tôi luôn nuôi dưỡng niềm tin tưởng rằng chư huynh biết làm tất cả những gì có thể, vừa tin tưởng phó thác cho Chúa, để bảo tồn sự hiệp nhầt và hiệp thông giáo hội, cả với giá phải trả là những hy sinh to lớn.

Nhiều thành viên của hàng giám mục Trung Hoa, trong những thập niên gần đây, đã hướng dẫn giáo hội, đã cống hiến và còn đang cống hiến cho cộng đoàn riêng tại chỗ và cho giáo hội phổ quát, một chứng tá sáng ngời. Một lần nữa, phát sinh từ tâm hồn tôi, một bài ca chúc tụng và cảm tạ dâng lên Vị "Mục Tử Tối Cao" của đoàn chiên. (1 Phêrô 5,4); quả thật, người ta không thể quên rằng nhiều người trong số quý chư huynh đã chịu bách hại và đã bị ngăn cản không cho thi hành thừa tác vụ của mình; và vài vị đã làm cho giáo hội được phong phú, bởi việc phải hy sinh mạng sống mình. Thời đại mới và những thách thức từ đó của công việc rao giảng phúc âm, làm nổi bật vai trò của thừa tác vụ giám mục. Như Ðức Gioan Phaolô II đã nói cho các vị Chủ Chăn khắp nơi trên thế giới, họp nhau tại Roma để cử hành Năm Thánh, "vị chủ chăn là người chịu trách nhiệm đầu tiên, và là người linh động cộng đoàn giáo hội, trong đòi hỏi sống hiệp thông cũng như trong dự án truyền giáo. Ðối diện chủ thuyết tương đối và chủ thuyết chủ quan đang đầu độc nhiều phần của nền văn hoá hiện đại, các giám mục được mời gọi bảo vệ và cổ võ sự hiệp nhất giáo lý nơi các tín hữu. Ðược thôi thúc trong mọi hoàn cảnh trong đó đức tin bị lạc mất hoặc bị lơ là, các giám mục hãy dấn thân hết sức mình để phục vụ cho công việc rao giảng phúc âm, bằng việc chuẩn bị các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho công việc truyền giáo này, và bằng việc dành ra những phương tiện cần thiết" (37).

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta tiếp tục đọc số 8 của Bức Thư ÐTC gởi cho Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, trong dó chúng ta nghe ÐTC nói về các trách vụ của Các Giám Mục, đặc biệt của các giám mục vì không chấp nhận sự xen mình vô lý của các cơ quan nhà nước vào nội bộ của giáo hội, mà đành thụ phong một cách bí mật. ÐTC mong sao tình trạng này không còn nữa, để chủ chăn và tín hữu được sống đức tin một cách trọn vẹn và công khai. ÐTC đã viết như sau:

 

Trong cùng dịp Năm Thánh, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi đã nhắc lại rằng "Giám Mục, xét như là người kế vị các thánh Tông Ðồ, là kẻ chọn Chúa Kitô là tất cả cho đời mình. Cùng với thánh Phaolô, vị giám mục này có thể nói mỗi ngày như sau: "Ðối với tôi, sống là Chúa Kitô... (Filemon 1,21). Ngài phải làm chứng cho điều này với trọn cả nếp sống của ngài. Công Ðồng Vaticanô II dạy rằng: "Các giám mục phải chu toàn bổn phận tông đồ của mình, như những chứng nhân của Chúa Kitô, trước tất cả mọi người" (Sắc Lệnh về Giám Mục, Christus Dominus, số 11)" (38).

Liên quan đến công việc phục vụ của giám mục, Tôi xin mượn dịp này để nhắc lại những gì tôi đã nói mới đây, --- vào ngày 21 tháng 9 năm 2006, trong dịp tiến kiến tại Roma dành cho các giám mục, --- như sau: "Các giám mục có trách nhiệm đầu tiên xây dựng Giáo Hội như là gia đình của Thiên Chúa và như là nơi để trợ giúp lẫn nhau và sẵn sàng tiếp nhận nhau. Ðể có thể chu toàn sứ mạng này, các ngài đã lãnh nhận, qua việc thụ phong giám mục, ba trách vụ đặc biệt: giảng dạy, thánh hoá và cai quản; cả ba trách vụ riêng này kết thành trách vụ chung chăn dắt đoàn chiên. Một cách đặc biệt, mục tiêu của trách vụ cai quản là sự tăng trưởng trong sự hiệp thông giáo hội, nghĩa là việc xây dựng một cộng đoàn hoà hợp trong việc lắng nghe giáo huấn của các tông đồ, trong việc bẻ bánh, trong việc cầu nguyện và trong tình huynh đệ. Liên kết một cách chặt chẽ với những trách vụ giảng dạy và thánh hoá, trách vụ cai quản --- đúng hơn trách vụ mục tử --- đối với giám mục, là một hành động đích thực của tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân, được diễn tả trong đức bác ái mục vụ" (39).

Như xảy ra trên thế giới, và cả tại Trung Quốc, Giáo Hội được cai quản bởi các giám mục; qua việc thụ phong giám mục do bởi những giám mục khác đã được thụ phong cách hợp pháp, các ngài đã lãnh nhận, --- cùng với trách vụ thánh hoá, giảng dạy và cai quản, --- (lănh nhận) Dân Chúa được trao phó cho các ngài tại những giáo hội địa phương, với quyền hành được Thiên Chúa trao cho, qua ơn sủng của Bí Tích Truyền Chức Thánh. Những trách vụ giảng dạy và cai quản, "tự bản chất, không thể nào được thi hành, nếu không có sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ Lãnh, là Ðức Giáo Hoàng, và với các thành viên của giám mục đoàn" (40). Thật vậy, --- như Công Ðồng Vaticanô II xác định rõ ràng --- "một người được thiết lập như là thành phần của giám mục đoàn nhờ qua việc thánh hiến bí tích và sự hiệp thông phẩm trật với Thủ Lãnh và với các thành phần của giám mục đoàn" (41).

Hiện nay, tất cả các giám mục của giáo hội công giáo tại Trung Quốc là những người con của dân tộc trung hoa. Mặc cho nhiều khó khăn trầm trọng, nhưng nhờ ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc đã không bao giờ bị thiếu đi thừa tác vụ của những vị chủ chăn hợp pháp, duy trì nguyên vẹn sự tiếp nối các tông đồ. Chúng ta cần cảm tạ Thiên Chúa, vì sự hiện diện liên tục và đầy đau khổ của những giám mục được thụ phong một cách phù hợp với truyền thống công giáo, nghĩa là trong sự hiệp thông với vị Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, và qua việc đặt tay của những giám mục đã được thụ phong cách thành sự và hợp pháp, đúng theo nghi thức của giáo hội công giáo.

Vài vị trong hàng giám mục, vì không muốn phục tùng sự kiểm soát không đúng, áp đặt trên đời sống của Giáo Hội và vì muốn duy trì sự trung thành trọn vẹn với người kế vị thánh Phêrô và với giáo lý công giáo, nên bắt buộc để mình được tấn phong một cách bí mật. Tính cách bí mật này không phải là điều bình thường trong đời sống của giáo hội; và lịch sử chứng minh rằng các Chủ chăn và tín hữu phải dùng đến biện pháp bí mật này, chỉ vì muốn và sẵn sàng chịu đau khổ, để duy trì toàn vẹn đức tin, và không chấp nhận việc những cơ quan nhà nước xen mình vào nội bộ giáo hội, trong những gì liên quan đến việc riêng nội bộ của đời sống giáo hội. Vì lý do này, Toà Thánh ước mong sao những chủ chăn được thụ phong hợp pháp và cách bí mật này có thể được những Thẩm Quyền chính phủ công nhận như là những chủ chăn, với những hệ quả của việc công nhận này trong bình diện dân sự, --- trong những gì cần thiết --- và Toà Thánh cũng ước mong rằng tất cả các tín hữu có thể được tự do diễn tả Ðức Tin mình trong khung cảnh xã hội họ đang sinh sống.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Số 8 của Thư ÐTC gởi cho Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc là số dài nhất, và bàn về vấn đề quan trọng là vấn đề Hàng Giám Mục công giáo tại Trung Quốc. Nay, chúng ta đọc tiếp phần cuối cùng của số 8 này, trong đó ÐTC nhắc đến những hoàn cảnh đặc biệt của các giám mục, được phong chức chui nhưng xin được hiệp thông với ÐTC. ÐTC đã viết như sau:

 

Những chủ chăn khác, ngược lại, dưới sức thúc đẩy của những hoàn cảnh đặc thù, đã đồng ý lãnh nhận chức giám mục mà không có sứ vụ lệnh của đức giáo hoàng, nhưng sau đó, đã xin được chấp nhận trong sự hiệp thông với người kế vị thánh Phêrô và với những anh em khác trong hàng giám mục. Ðức Thánh Cha, vì nhìn thấy những tâm tình thành thực nơi các ngài và xét theo sự phức tạp của hoàn cảnh, và với ý kiến của những giám mục lận cận, với trách nhiệm riêng như là Chủ Chăn phổ quát của Giáo Hội, đã đồng ý ban cho các ngài được thi hành trọn vẹn và hợp pháp quyền hành giám mục. Sáng kiến này của Ðức Giáo Hoàng phát sinh từ sự hiểu biết về những hoàn cảnh đặc thù của việc tấn phong giám mục và từ quan tâm mục vụ sâu xa để cổ võ việc tái thiết lập sự hiệp thông trọn vẹn. Buồn thay, trong nhiều trường hợp, các linh mục và tín hữu đã không được thông tin đầy đủ về việc hợp thức hoá đã được thực hiện cho vị giám mục của họ; và điều này đã tạo dịp cho nhiều vấn đề lương tâm trầm trọng. Ðàng khác, những vị giám mục được hợp thức hoá, đã không cho thấy những hành động chứng minh rõ ràng việc hợp thức hoá đã có. Vì thế, điều cần phải làm là: vì lợi ích thiêng liêng của cộng đoàn giáo phận liên hệ, việc hợp thức hoá đã xảy ra, nay nên được công khai hoá trong thời gian ngắn tới đây; và các vị giám mục đã được hợp thức hoá cũng cần biểu lộ mỗi ngày một hơn những hành động rõ ràng chứng tỏ sự hiệp thông trọn vẹn với người kế vị thánh Phêrô.

Cuối cùng, cũng có vài Giám mục --- và con số quả thật là rất ít --- đã được thụ phong giám mục không có sứ vụ lệnh của Ðức Giáo Hoàng và cũng đã không xin, --- và do đó chưa có, --- sự hợp thức hoá cần thiết. Theo giáo lý của giáo hội công giáo, những vị giám mục này phải được xem như là "không hợp luật đạo", --- (nghĩa là bất hợp pháp trong giáo hội), --- nhưng đã được thụ phong thành sự, miễn là có sự chắc chắn rằng các vị này đã được thụ phong từ những giám mục đã được thụ phong thành sự, và rằng việc thụ phong này đã tuân giữ đúng theo nghi thức công giáo. Các vị giám mục chưa được hợp thức hoá này, mặc dù không có sự hiệp thông với người kế vị thánh Phêrô, nhưng thi hành một cách thành sự thừa tác vụ của họ trong việc ban các bí tích, nhưng một cách không phù hợp với luật đạo. Thật là điều mang đến sự phong phú thiêng liêng cho giáo hội tại Trung Quốc biết là chừng nào, nếu, tuân theo những điều kiện cần thiết, các vị chủ chăn chưa được hợp thức hoá này, đạt đến sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô và với toàn thể hàng giám mục công giáo! Không những thừa tác vụ giám mục của các ngài sẽ được hợp pháp, --- nghĩa là hợp với luật đạo ---, mà còn kéo theo kết quả này nữa là sự hiệp thông của các ngài với các linh mục và tín hữu, được phong phú hơn; các tín hữu này xem giáo hội tại Trung Quốc là thành phần của giáo hội công giáo, hiệp nhất với vị giám mục Roma và với tất cả những giáo hội địa phương khác, rải rác khắp nơi trên thế giới.

Tại mỗi quốc gia, tất cả các giám mục hợp pháp trong giáo hội, kết thành một Hội Ðồng Giám Mục, được thành lập theo một quy chế riêng; và theo giáo luật, quy chế này phải được Toà Thánh phê chuẩn. Một Hội Ðồng Giám Mục như thế, nói lên sự hiệp thông huynh đệ của tất cả các giám mục trong một quốc gia và bàn đến những vấn đề giáo lý và mục vụ có tầm quan trọng cho toàn thể cộng đoàn công giáo tại đất nước đó, mà không can thiệp vào việc thi hành bản quyền thông thường và liền ngay của vị giám mục trong giáo phận riêng của ngài. Hơn nữa, mỗi Hội Ðồng Giám Mục đều duy trì những tiếp xúc hữu ích và đúng lúc với những Thẩm quyền dân sự tại địa phương, vừa cổ võ sự cộng tác giữa Giáo hội và Nhà Nước. Nhưng điều hiển nhiên là Hội Ðồng Giám Mục không thể nào tuỳ thuộc vào bất cứ Thẩm Quyền dân sự nào, trong những vấn đề về Ðức Tin và về nếp sống theo Ðức Tin --- (gồm có đức tin, phong hoá, và đời sống bí tích), --- là những vấn đề hoàn toàn thuộc về thẩm quyền của Giáo Hội.

Theo ánh sáng của những nguyên tắc vừa nói trên, Giám Mục Ðoàn công giáo hiện nay tại Trung Quốc (42) không thể nào được Toà Thánh nhìn nhận như là Hội Ðồng Giám Mục, xét vì những giám mục "bí mật" (hay "hầm trú") --- nghĩa là những giám mục không được Nhà Nước nhìn nhận, nhưng sống trong hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng, --- không là thành phần của Hội Ðồng Giám Mục này. Hội Ðồng Giám Mục hiện nay có bao gồm những giám mục cho đến giờ này vẫn "chưa hợp luật đạo", và là một Hội Ðồng Giám Mục được điều hành bởi Quy Chế có tích chứa những yếu tố không thể nào phù hợp với Ðức Tin công giáo.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Chúng ta đã lần lượt đọc qua các số của phần I Bức thư của ÐTC gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, trình bày hành cảnh hiện nay của giáo hội công giáo tại Trung Quốc với những vấn đề liên quan đến giáo lý của giáo hội công giáo. Những điểm thần học về sự hiệp nhất và hiệp thông giáo hội, về sự tiếp nối các Tông Ðồ, về thừa tác vụ của Giám Mục, về Giáo Hội địa phương, và về việc bổ nhiệm giám mục, tất cả điều được ÐTC trình bày rõ ràng, cùng với những vấn đề cụ thể mà Thẩm Quyền dân sự của Nhà Nước Trung Quốc đã và còn đang đặt ra cho Toà Thánh và cho Giáo Hội tại Trung Quốc.

Nay, chúng ta hãy đọc số 9, là số cuối cùng của Phần I, nói về việc bổ nhiệm giám mục. ÐTC đã viết như sau:

 

9. Việc bổ nhiệm giám mục

Như tất cả anh chị em đều đã biết, một trong những vấn đề tế nhị nhất trong những tương quan của Toà Thánh với những Thẩm quyền của đất nước anh chị em, là vấn đề bổ nhiệm những giám mục. Một đàng, người ta có thể hiểu rằng những Thẩm Quyền cai trị chú ý đến sự chọn lựa những người sẽ thi hành vai trò quan trọng làm kẻ hướng dẫn và làm chủ chăn của những cộng đoàn công giáo địa phương, chú ý đến những phản hồi xã hội mà --- tại Trung Quốc cũng như tại những nơi khác trên thế giới --- vai trò này có trong lãnh vực dân sự. Ðàng khác, Toà Thánh theo dõi --- với sự chăm sóc đặc biệt, --- việc bổ nhiệm giám mục, bởi vì việc bổ nhiệm này chạm đến chính con tim của đời sống Giáo Hội, bởi vì việc bổ nhiệm giám mục từ Ðức Giáo Hoàng là bảo đảm cho sự hiệp nhất của Giáo hội và cho sự hiệp thông phẩm trật. Vì lý do này, giáo luật (nơi khoản 1382) thiết định những chế tài nghiêm trọng đối với vị giám mục nào tự ý phong chức giám mục mà không có sứ vụ lệnh tông toà, cũng như đối với vị được thụ phong giám mục; việc thụ phong như thế quả thật là một vết thương đau đớn gây cho sự hiệp thông giáo hội và là một lỗi phạm nặng nề đối với kỷ luật giáo hội.

Khi ban sứ vụ lệnh tông toà để phong chức giám mục cho một đương sự, Ðức giáo hoàng thi hành quyền thiêng liêng tối cao của mình: đây là một quyền hành và một sự can thiệp nằm trong lãnh vực hoàn toàn tôn giáo. Do đó, đây không phải là một quyền hành chính trị, xen mình không đúng vào trong những việc nội bộ của một Nhà Nước và phạm đến chủ quyền tối cao của Nhà Nước đó. Việc bổ nhiệm những vị Chủ Chăn cho một cộng đoàn tôn giáo nhất định, được hiểu, --- cả trong những văn kiện quốc tế, --- như là một yếu tố cấu thành của việc thực thi quyền tự do tôn giáo (43). Toà Thánh mong muốn được tự do hoàn toàn trong việc bổ nhiệm giám mục (44); tuy nhiên, khi nhìn vào con đường đặc biệt mới đây của Giáo Hội tại Trung Quốc, Tôi ước mong tìm được một sự đồng ý với Chính Quyền, để giải quyết vài vấn đề liên quan đến việc tuyển chọn những ứng viên vào hàng giám mục, cũng như liên quan đến việc công bố việc bổ nhiệm giám mục và việc nhìn nhận - với những hệ quả dân sự trong những gì cần thiết - (nhìn nhận) vị tân giám mục từ phía những thẩm quyền dân sự.

Cuối cùng, liên quan đến việc tuyển chọn những ứng viên vào hàng giám mục, và biết rõ những khó khăn của anh chị em trong vấn đề nầy, Tôi muốn nhắc lại điều cần thiết rằng các ứng viên đó phải là những linh mục xứng đáng, được tín hữu tôn trọng và yêu mến, là gương mẫu đời sống trong đức tin, có kinh nghiệm nào đó trong thừa tác vụ mục vụ, và như thế có khả năng hơn, để đương đầu với trách nhiệm nặng nề làm Chủ Chăn của Giáo Hội. (45) Khi mà trong một giáo phận người ta không thể tìm gặp những ứng viên thích hợp cho toà giám mục, thì sự công tác với những giám mục của các giáo phận gần bên có thể giúp tìm những ứng viên đúng tiêu chuẩn.

 

Quý vị và các bạn thân mến. Trên đây là phần I Thư của ÐTC gởi cho Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Chúng tôi sẽ đọc tiếp Phần II trong các chương trình phát thanh lần tới. Mong quý vị và các bạn sẽ theo dõi...

 

(Ðặng Thế Dũng)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page