Diễn từ của ÐTC Benedictô XVI

khai mạc Nghị Hội Các Giám Mục

Mỹ Châu La Tinh và vùng Caribe

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Diễn từ của ÐTC Benedictô XVI khai mạc Nghị Hội Các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh và vùng Caribe, tại Trung Tâm Thánh Mẫu Aparecida, Brazil, ngày 13/05/2007.

"Không chỉ là Lục Ðịa của Hi Vọng mà còn là Lục Ðịa của Tình Yêu"

 

Các hiền huynh Giám Mục, các linh mục, nam nữ tu sĩ và anh chị em giáo dân thân mến,

Các quan sát viên của các tôn giáo bạn thân mến,


ÐTC Beneđitô XVI đọc diễn văn Khai Mạc Khóa họp lần thứ V của Liên Hội Ðồng Giám Mục Mỹ Châu Latinh và vùng vịnh Caribe, tại Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Aparecida, vào ngày 13/05/2007.


Thật là niềm vui lớn lao cho tôi được hiện diện nơi đây giữa anh chị em để khai mạc Ðại Hội Ðồng Các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh và Vùng Caribê Lần Thứ Năm được tổ chức gần bên Ðền Thánh Ðức Mẹ Aparecida, Bổn Mạng Nước Ba Tây. Tôi muốn được bắt đầu bằng những lời tạ ơn và tán tụng Chúa vì hồng ân đức tin Công Giáo lớn lao Chúa đã ban cho các dân tộc của Ðại Lục này.

 

1. Ðức Tin Công Giáo tại Mỹ Châu La Tinh

Ðức tin nơi Thiên Chúa đã linh hoạt đời sống và văn hóa của những quốc gia này trong hơn năm thế kỷ qua. Từ cuộc gặp gỡ giữa đức tin và các dân tộc bản địa đã xuất hiện nền văn hóa Kitô Giáo phong phú của Lục Ðịa này, được thể hiện trong nghệ thuật, âm nhạc, văn chương và trên hết là trong các truyền thống đạo đức cũng như trong toàn bộ lối sống của các dân tộc, những người được kết hiệp với nhau vì cùng chia sẻ một lịch sử, và một đức tin mang đến cho họ một sự hài hòa nền tảng lớn lao, bất chấp dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ. Giờ đây, đức tin chung này gặp phải những thách đố nghiêm trọng cần phải được đề cập đến, vì sự phát triển hài hòa của xã hội và căn tính Công Giáo của những dân tộc này đang gặp thử thách. Về điều này, Ðại Hội Ðồng lần thứ Năm đang chuẩn bị suy tư về tình trạng hiện nay ngõ hầu giúp các tín hữu Công Giáo sống đức tin của họ vui tươi và mạch lạc, giúp họ đào sâu nhận thức họ là các môn đệ và các nhà truyền giáo của Chúa Kitô, được Ngài sai đến trong thế gian để công bố và làm chứng cho đức tin và tình yêu của họ.

Tuy nhiên, chấp nhận đức tin Công Giáo có nghĩa gì đối với các dân tộc Mỹ Châu La Tinh và Vùng Caribê? Ðối với họ, đó là nhận biết và đón nhận Chúa Kitô, một Thiên Chúa chưa tường minh mà cha ông họ tìm kiếm - dù không nhận thức rõ rệt - trong các truyền thống tôn giáo. Chúa Kitô là Ðấng Cứu Ðộ họ lặng lẽ ngóng trông. Chấp nhận đức tin cũng có nghĩa là họ đã đón nhận, trong nước Rửa Tội, cuộc sống thiêng liêng khiến họ trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa; hơn thế nữa, họ đón nhận Thánh Thần, Ðấng đến để làm cho các nền văn hóa của họ phong phú, thanh luyện chúng và sản sinh vô số hạt giống mà Ngôi Lời nhập thể đã gieo trong những nền văn hóa này, qua đó hướng dẫn họ sống trong đường lối của Tin Mừng. Như thế, việc công bố Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài không có chút gì có thể coi là tha hóa các nền văn hóa tiền Kha Luân Bố, cũng chẳng phải là sự áp đặt của một nền văn hóa ngoại lai. Những nền văn hóa đích thật không đóng kín trong chính mình, cũng chẳng phải được thiết định bất di bất dịch tại một thời điểm nào đó trong lịch sử, nhưng chúng mở rộng, hay hơn thế nữa, là đang tìm kiếm sự gặp gỡ với những nền văn hóa khác, hy vọng sẽ đạt đến tính phổ quát qua các cuộc gặp gỡ với các lối sống khác và với những yếu tố có thể dẫn đến một sự tổng hợp mới, trong đó, sự khác biệt trong diễn đạt và những yếu tố văn hóa đặc thù luôn được tôn trọng.

Nói cho cùng, chỉ có sự thật mới có thể đem lại hiệp nhất, và bằng chứng của điều này là tình yêu. Ðó là lý do tại sao Chúa Kitô, Ðấng thực là Logos nhập thể, "là tình yêu đến cùng", không xa lạ với mọi nền văn hóa, không xa lạ với bất cứ ai; trái lại, lời đáp trả mà Ngài tìm kiếm nơi con tim của những nền văn hóa, chính là điều đem lại cho những nền văn hóa này căn tính tối hậu của chúng, trong khi hiệp nhất nhân loại và đồng thời tôn trọng sự phong phú của dị biệt, mở ra cho mọi người ở mọi nơi sự phát triển trong nhân bản và tiến bộ đích thực. Lời Chúa, khi hoá thành nhục thể nơi Chúa Giêsu Kitô, cũng trở nên lịch sử và văn hóa.

Hoang tưởng tìm về quá khứ để ngụp lặn cuộc sống trong những tôn giáo tiền Kha Luân Bố, tách những tôn giáo này khỏi Chúa Kitô và khỏi Giáo Hội Hoàn Vũ, không phải là một bước tiến, nhưng thực ra là một bước lùi. Trong thực tế, đó là một sự tháo lui quy hướng về một giai đoạn trong lịch sử đã chìm trong quá khứ.

May mắn thay, sự khôn ngoan của các dân tộc bản địa đã dẫn họ đến chỗ hình thành một tổng hợp giữa các nền văn hóa của họ và đức tin Kitô mà các nhà truyền giáo đang mang đến cho họ. Do đó, nảy sinh ra một lòng đạo phong phú, và phổ biến sâu rộng; một lòng đạo mà qua đó chúng ta có thể thấy tâm hồn của các dân tộc Mỹ Châu:

- yêu mến đau khổ của Chúa Kitô, vị Thiên Chúa đầy lòng lân tuất, tha thứ và hòa giải; vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức trao ban chính Ngài cho chúng ta;

- yêu mến Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể, một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chết và sống lại để nên bánh hằng sống;

- yêu mến Thiên Chúa gần gũi với người nghèo và những người chịu đau khổ.

- tôn sùng Ðức Trinh Nữ cực thánh Guadalupe, Aparecida, Ðức Trinh Nữ được kêu cầu dưới những tước hiệu đa dạng của các quốc gia và các địa phương. Khi Ðức Mẹ Guadalupe hiện ra với vị Thánh Thổ Dân Juan Diego, Mẹ đã nói những lời quan trọng này với ngài: "Mẹ không phải là mẹ con sao? Con không ở dưới bóng mẹ và dưới ánh mắt mẹ sao? Mẹ không phải là nguồn mạch vui mừng cho con sao? Con không nấp dưới áo mẹ, trong vòng tay mẹ sao?" (Nican Mopohua, Nos. 118-119).

Lòng đạo này còn được thể hiện nơi sự tôn kính các thánh với những lễ mừng bổn mạng, nơi tình yêu dành cho Ðức Giáo Hoàng và các vị Mục Tử khác, và trong tình yêu dành cho Giáo Hội Hoàn Vũ như một đại gia đình của Thiên Chúa, Ðấng không thể và chẳng bao giờ bỏ con cái mình bơ vơ hay túng thiếu. Tất cả điều này tạo nên bức tranh phù điêu của lòng đạo đức bình dân, là một kho tàng quý báu của Giáo Hội Công Giáo tại Mỹ Châu La Tinh, một kho tàng cần được bảo tồn, phát huy và tinh luyện nếu cần.

 

2. Kế tục các Ðại Hội Ðồng khác

Ðại Hội Ðồng lần Thứ Năm này được cử hành trong sự liên tục với bốn Ðại Hội Ðồng trước đó tại Rio de Janeiro, Medellín, Puebla và Santo Domingo. Với cùng một tinh thần như trước đây, các Ðức Giám Mục giờ đây mong muốn tạo ra một động lực truyền giáo mới để các dân tộc này tiếp tục lớn mạnh và trưởng thành về đức tin, ngõ hầu trở nên ánh sáng của thế gian và những chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô bằng chính cuộc sống của họ.

Sau Ðại Hội Ðồng lần thứ Tư tại Santo Domingo, nhiều thay đổi đã diễn ra trong xã hội. Giáo Hội chia sẻ những thành tựu và hy vọng, những đau khổ và niềm vui của con cái mình, mong muốn đồng hành với họ tại thời điểm đầy thách đố này để luôn khích lệ họ với hy vọng và ủi an (x. "Giáo Hội và Thế Giới", 1).

Thế giới ngày nay đang chứng kiến hiện tượng toàn cầu hóa như một mạng lưới quan hệ giăng mắc toàn hành tinh này. Mặc dù, từ những quan điểm nhất định, điều này đem lại những ích lợi cho đại gia đình nhân loại, và là một dấu chỉ cho khát vọng hướng đến hiệp nhất sâu xa; không chút hồ nghi gì nó cũng đang mang đến nguy cơ độc quyền rộng lớn cũng như nguy cơ coi lợi nhuận là giá trị tối thượng. Như mọi lãnh vực khác của hoạt động con người, toàn cầu hóa cần phải được hướng dẫn bởi luân lý, quy hướng tất cả vào sự phục vụ con người vốn đã được tạo nên trong và giống hình ảnh Thiên Chúa.

Tại Mỹ Châu La Tinh và vùng Caribê, cũng như ở những miền khác, có sự tiến bộ hướng đến dân chủ đáng ghi nhận, mặc dù vẫn còn những cơ sở gây nên quan ngại về những hình thái độc tài của chính quyền và các chế độ giao duyên với những ý thức hệ nhất định mà chúng ta tưởng rằng đã bị đánh bại. Những ý thức hệ đó không phù hợp với nhân sinh quan và xã hội quan Kitô Giáo như đã được trình bày trong Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội. Ở mặt khác của đồng tiền này, kinh tế tự do tại một vài quốc gia Mỹ Châu La Tinh cần phải tính đến sự bình đẳng, vì càng ngày càng có nhiều thành phần trong xã hội thấy họ bị đè bẹp trong sự nghèo đói rộng lớn hay thậm chí bị tước đi những tài nguyên thiên nhiên của chính họ.

Trong các cộng đoàn Giáo Hội tại Mỹ Châu La Tinh, có một mức độ trưởng thành về đức tin đáng ghi nhận trong số những người nam nữ giáo dân tích cực hiến mình cho Chúa. Cũng có nhiều giáo lý viên quảng đại, nhiều phong trào trong Giáo Hội và gần đây nhiều tu hội dành cho đời sống thánh hiến được hình thành. Nhiều sáng kiến về giáo dục, bác ái và gia cư đã được chứng thực là đem lại thành công đáng kể. Tuy nhiên, cũng thực sự mà nói là ta có thể thấy một sự suy giảm đời sống Kitô trong xã hội nói chung, và sự sút giảm tham gia vào đời sống Giáo Hội Công Giáo, do bởi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa duy khoái lạc, chủ nghĩa thờ ơ và nạn chiêu dụ tín đồ của vô số các giáo phái, các tôn giáo thờ linh vật, và hiện tượng tôn giáo giả hiệu.

Tất cả những điều này hình thành một tình trạng mới sẽ được phân tích ở Aparecida này. Ðối diện với những lựa chọn mới và khó khăn, các tín hữu đang hướng về Hội Nghị Lần Thứ Năm này để canh tân và tái linh hoạt đức tin của họ nơi Chúa Kitô, là Thầy Dậy và là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của chúng ta, Ðấng đã mạc khải cho chúng ta kinh nghiệm độc đáo của tình yêu vô biên mà Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại. Từ nguồn mạch này, sẽ xuất hiện những con đường mới và những kế hoạch mục vụ sáng tạo có khả năng thấm nhập một niềm hy vọng mạnh mẽ để thể hiện đức tin vui tươi và có trách nhiệm, và nhờ đó đức tin có thể lan tỏa cho những người xung quanh ta.

 

3. Môn đệ và thừa sai

Ðại Hội Ðồng này có chủ đề: "Môn đệ và Thừa sai của Chúa Giêsu Kitô, để các dân tộc của chúng ta có sự sống trong Người - Thầy là Con Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14, 6).

Giáo Hội có nghĩa vụ cao cả là giữ gìn và nuôi dưỡng đức tin của Dân Chúa, và nhắc nhở người tín hữu trong Lục Ðịa này rằng, bởi phép Thánh Tẩy, họ được kêu gọi để trở thành môn đệ và thừa sai của Chúa Giêsu Kitô. Hệ quả là họ phải bước theo Người, sống thân mật với Người, bắt chước mẫu gương của Người, và làm chứng cho Người. Như các Thánh Tông Ðồ, mỗi người đã được rửa tội đều đón nhận từ Chúa Kitô một mệnh lệnh truyền giáo: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ" (Mc 16, 15). Ðể trở thành những môn đệ và thừa sai của Chúa Giêsu Kitô, và để tìm được sự sống "trong Người" đòi hỏi phải đâm rễ sâu trong Người.

Chúa Kitô thực sự ban cho chúng ta điều gì? Tại sao chúng ta muốn trở nên môn đệ của Chúa Kitô? Câu trả lời là: khi kết hiệp với Người, chúng ta hy vọng tìm được sự sống, một sự sống đích thực xứng với tên gọi của nó, và vì thế, chúng ta muốn làm cho người khác nhận biết Người, muốn thông truyền cho họ hồng ân mà chúng ta đã tìm thấy nơi Người. Nhưng có thực là như thế không? Chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa Kitô là con đường, là sự thật và là sự sống không?

Việc đặt ưu tiên cho đức tin vào Chúa Kitô và sự sống "trong Người", như đã được nêu trong tên gọi của Hội Nghị Thứ Năm này, nảy sinh một câu hỏi nữa: Sự ưu tiên này phải chăng chỉ là một trốn chạy đến chủ thuyết đa cảm, đến chủ thuyết cá nhân tôn giáo, vốn là một sự gác bỏ thực tại khẩn thiết trước các vấn đề trọng đại về kinh tế, xã hội, chính trị của Châu Mỹ La tinh và của thế giới, và là sự trốn chạy khỏi thực tại để hướng về một thế giới thiêng liêng?

Trước tiên, chúng ta trả lời cho câu hỏi này bằng một câu hỏi khác: "thực tại" này là gì? Cái gì là thực? Có phải chỉ của cải vật chất và những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị mới là "thực tại"? Ðây chính là một lỗi lầm nghiêm trọng của những khuynh hướng thống trị thế giới trong thế kỷ vừa qua, một lỗi lầm tai hại nhất, như chúng ta thấy hậu quả của chúng ở cả hai hệ thống chủ nghĩa Mác-xít và tư bản. Chúng làm cho khái niệm về thực tại trở nên sai lạc bằng cách tách biệt nó khỏi thực tại căn bản và quyết định là Thiên Chúa. Bất cứ ai xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi chân trời của họ đều làm cho "thực tại" này trở thành sai lạc, và kết cục, chỉ có thể dẫn đến những ngõ hẹp mù tối hoặc tạo ra những yếu tố huỷ diệt.

Vậy điểm cơ bản trước tiên cần phải khẳng định, đó là: chỉ những ai nhìn nhận Thiên Chúa mới biết rõ thực tại và mới có thể đáp ứng một cách thích ứng và với cách thức thật sự nhân bản. Sự thật về luận đề này trở nên hiển nhiên trước sự sụp đổ của tất cả hệ thống gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài lề.

Tuy nhiên, một câu hỏi khác xuất hiện ngay: ai nhận biết Thiên Chúa? Chúng ta có thể nhận biết Người cách nào? Ở đây chúng ta không thể đi sâu vào việc thảo luận chi tiết vấn đề căn bản này. Ðối với một Kitô hữu, cốt lõi của câu trả lời thật là đơn giản: chỉ Thiên Chúa mới biết Thiên Chúa, chỉ Con của Người là Thiên Chúa thật xuất phát từ Thiên Chúa, mới biết Người. Và Người là "Ðấng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1, 18). Bởi đó vai trò của Chúa Kitô là duy nhất và bất khả thế vị đối với nhân loại chúng ta. Nếu chúng ta không nhận biết Thiên Chúa trong và với Chúa Kitô, tất cả thực tại này hoá thành điều bí ẩn bất khả giải mã; Thật là cùng đường! Và nếu không có một con đường nào thì chẳng có sự sống mà cũng chẳng có sự thật.

Thiên Chúa là thực tại nền tảng, không phải một Thiên Chúa do tưởng tượng và giả thuyết đặt ra, nhưng một Thiên Chúa mang dung mạo con người; Người là Thiên Chúa-ở cùng-chúng ta, Thiên Chúa yêu đến độ chết trên Thánh Giá. Khi người môn đệ đạt tới sự hiểu thấu tình yêu "đến tận cùng" của Chúa Kitô, họ không thể không đáp trả lại tình yêu này với cùng một tình yêu như vậy: "Tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu" (Lc 9, 57).

Chúng ta cũng có thể tự đặt ra một câu khỏi khác: đức tin vào vị Thiên Chúa này đem lại cho chúng ta cái gì? Câu trả lời trước hết là: nó ban cho chúng ta một gia đình, một đại gia đình của Thiên Chúa là Giáo Hội Công Giáo. Ðức tin giải thoát chúng ta khỏi sự cô độc của cái "tôi", bởi vì đức tin dẫn chúng ta đến sự hiệp thông: sự gặp gỡ Thiên Chúa, chính nó cũng là sự gặp gỡ anh chị em của chúng ta, là một thái độ của sự nhập hội, sự hiệp nhất, và trách nhiêm hướng về tha nhân. Theo nghĩa này, sự chọn lưa ưu tiên người nghèo đã hàm chứa đức tin mang chiều kích Kitô học vào Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên nghèo vì chúng ta, để chúng ta nên giàu có do sự nghèo khó của Người (x. 2 Cr 8, 9).

Tuy nhiên, trước khi cứu xét điều gì ràng buộc chúng ta trước đòi hỏi đức tin vào Thiên Chúa trở nên người phàm, chúng ta phải tìm hiểu câu hỏi sâu xa hơn: làm thế nào chúng ta có thể thật sự nhận biết Chúa Kitô để chúng ta có thể bước theo Người và sống với Người, hầu tìm được sự sống trong Người và chuyển đạt sự sống ấy cho người khác, cho xã hội và cho thế giới? Trước hết và quan trọng nhất, Chúa Kitô mặc khải con người, đời sống, và giáo huấn của Người cho chúng ta qua lời Thiên Chúa. Vào lúc bắt đầu giai đoạn mới mà Giáo Hội thừa sai của Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê đang chuẩn bị bước vào, khởi đi từ Hội Nghị Chung Lần Thứ Năm tại Aparecida thì điều kiện tiên quyết không thể thiếu là sự hiểu biết sâu xa về Lời Chúa.

Ðể đạt được điều này, chúng ta phải huấn luyện dân chúng đọc và suy niệm Lời Chúa: điều này phải trở thành lương thực chính yếu của họ, để qua chính kinh nghiệm của họ, người tín hữu sẽ nhận ra rằng những lời của Chúa Giêsu là thần trí và là sự sống (Ga 6, 63). Nếu không, làm sao họ có thể loan báo một sứ điệp mà họ không hề hay biết nội dung cũng như tinh thần của nó? Chúng ta phải xây dựng sự dấn thân truyền giáo của chúng ta và của toàn bộ đời sống chúng ta trên nền đá tảng của Lời Chúa. Vì lí do đó, tôi khuyến giục các Giám mục hãy nỗ lực quảng bá điều này.

Một cách thế quan trọng trong việc dẫn đưa Dân Chúa đi vào mầu nhiệm Chúa Kitô là thông qua giáo lí. Ở đó, sứ điệp của Chúa Kitô được truyền đạt trong một hình thức đơn giản và sống động. Bởi đó, cần phải tăng cường việc dạy giáo lí và huấn luyện đức tin không chỉ cho các trẻ em, nhưng còn cho thanh niên và người lớn. Phản chiếu một đức tin trưởng thành là luồng ánh sáng chiếu soi cho nẻo đường cuộc sống và là một nguồn sức mạnh cho việc làm chứng cho Chúa Kitô. Những khí cụ giá trị nhất giúp chúng ta đạt được điều này là Sách Giáo Lí Hội Thánh Công Giáo và bản tóm của nó, Sách Toát Yếu Giáo Lí Hội Thánh Công Giáo.

Trong lãnh vực này, chúng ta không được giới hạn chỉ vào các bài giảng giải, các bài thuyết trình, các khoá Kinh Thánh hay các khoá thần học, nhưng cũng còn cần đến các phương tiện truyền thông đại chúng: báo chí, truyền thanh và truyền hình, các mạng tin học, các diễn đàn và nhiều phương pháp khác để truyền thông sứ điệp Chúa Kitô một cách hữu hiệu cho một số đông dân chúng.

Trong nỗ lực tìm biết sứ điệp của Chúa Kitô và dùng nó làm bản hướng dẫn cho đời sống của chính chúng ta, chúng ta cần nhớ rằng rao giảng Tin Mừng luôn phát triển song hành với việc phát huy con người và sự giải phóng đích thực Kitô giáo. "Lòng mến Chúa và yêu tha nhân đã trở thành một; trong người anh em bé nhỏ nhất chúng ta nhìn thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta tìm thấy Thiên Chúa" (Thông điệp "Deus Caritas Est," 15). Cũng vì lí do đó, sẽ cần có giáo lí về xã hội và việc huấn luyện đầy đủ về giáo thuyết xã hội của Giáo Hội, mà một dụng cụ rất hữu ích cho điều này là Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh. Ðời sống Kitô giáo không chỉ được diễn đạt trong các nhân đức riêng tư, nhưng còn qua các đức tính xã hội và chính trị.

Người môn đệ, được xây dựng trên tảng đá Lời Chúa theo cách thức đó, sẽ cảm thấy được cuốn hút vào việc đem Tin Mừng cứu chuộc cho các anh chị em mình. Làm môn đệ và truyền giáo như là hai mặt của một đồng tiền: khi người môn đệ yêu mến Chúa Kitô, anh ta không thể không loan báo cho thế giới rằng chỉ trong Người chúng ta mới tìm thấy ơn cứu chuộc (x. Cv 4, 12). Thật vậy, người môn đệ biết rằng không có Chúa Kitô thì không có ánh sáng, không có hi vọng, không có tình yêu, không có tương lai.

 

4. "Ðể họ có sự sống trong Người"

Các dân tộc Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê có quyền hưởng sự sống sung mãn, phù hợp với các con cái Thiên Chúa, dưới những điều kiện nhân bản hơn: thoát khỏi sự đe doạ của nạn đói và mọi hình thức bạo lực. Ðối với những dân tộc này, các Giám mục của họ phải tôn vinh một nền văn hoá sự sống, mà theo lời vị tiền nhiệm của tôi Ðức Phaolô VI, có thể cho phép "chuyển từ cơ cực hướng đến việc sử hữu các nhu cầu...thủ đắc văn hoá...cộng tác vì thiện ích chung...nhìn nhận con người có những giá trị tối thượng, và Thiên Chúa, nguồn sống và cùng đích của họ" (Thông điệp Populorum Progressio, 21).

Trong bối cảnh này, tôi vui mừng nhắc lại Thông điệp "Populorum Progressio," mà chúng ta mừng ngày kỉ niệm bốn mươi năm. Tài liệu này nhấn mạnh rằng sự phát triển đích thực phải là tổng thể, nghĩa là, nhắm đến phát huy con người toàn diện và mọi người dân (x. số 14), và nó mời gọi mọi người phải đánh bại những bất bình đẳng nghiêm trọng trong xã hội và những khác biệt lớn lao trong việc chiếm hữu của cải. Những dân tộc này đang khao khát, trên hết, sự sống sung mãn mà Chúa Kitô đem đến cho họ: "Tôi đến để họ được sống, và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Với sự sống thần linh, sự sống con người cũng được phát triển tới mức viên mãn trong mọi chiều kích: nhân cách, gia đình, xã hội và văn hoá.

Ðể huấn luyện môn đệ và nâng đỡ thừa sai trong trách vụ trọng đại của mình, Giáo Hội cung ứng cho họ, cùng với bánh Lời Chúa là bánh Thánh Thể. Về việc này, chúng ta tìm được sự thôi thúc và sự dọi sáng trong đoạn Tin Mừng về hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Khi họ ngồi vào bàn và nhận bánh đã được Chúa Giêsu Kitô làm phép và bẻ ra thì mắt họ mở ra và họ nhận ra khuôn mặt của Chúa Phục Sinh, họ cảm nhận trong lòng họ mọi điều Chúa đã nói và đã thực hiện là sự thật, và ơn cứu chuộc thế giới đã bắt đầu khai mào. Mỗi Chúa Nhật và mỗi cuộc cử hành Thánh Thể là cuộc gặp gỡ riêng với Chúa Kitô. Lắng nghe Lời Chúa, tâm hồn chúng ta bừng cháy bởi vì chính Người đang cắt nghĩa và loan báo lời đó. Khi chúng ta bẻ bánh trong Bí tích Thánh Thể, thì chúng ta đón nhận chính Người một cách riêng tư. Bí tích Thánh Thể là lương thực không thể thiếu cho đời sống người môn đệ và người thừa sai của Chúa Kitô.

Thánh Lễ Chúa Nhật, Trọng Tâm của Ðời Sống Kitô

Từ đó, cần đặt ưu tiên các chương trình mục vụ đề cao tầm quan trọng của Thánh Lễ Chúa Nhật. Chúng ta phải thúc giục các Kitô hữu tham dự Thánh Lễ một cách tích cực, và nếu có thể, tốt hơn cả gia đình họ cùng tham dự. Việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật của cha mẹ cùng các con cái của họ là một cách thế hữu hiệu để truyền dạy đức tin, và chính mối liên hệ chặt chẽ này sẽ duy trì sự hiệp nhất của họ với nhau. Chúa Nhật, trong toàn bộ sinh hoạt của Giáo Hội, đã là giây phút riêng để cộng đồng gặp gỡ Chúa Phục Sinh.

Các Kitô hữu phải biết rằng họ không bước theo một nhân vật của quá khứ, nhưng Chúa Kitô đang sống, hiện diện trong ngày hôm nay và bây giờ trong cuộc đời của họ. Người là Ðấng đang sống, đang đồng hành với chúng ta, mặc khải cho chúng ta các ý nghĩa của các biến cố, của đau khổ và sự chết, của vui mừng, hoan lạc, khi Người bước vào nhà của chúng ta và ở lại đó, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh ban sự sống. Vì lí do này, Thánh Lễ Chúa Nhật phải là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.

Việc gặp gỡ Chúa Kitô Trong Bí Tích Thánh Thể mời gọi một cuộc dấn thân rao giảng Tin Mừng và là một sự thôi thúc hướng về tình liên đới; nó thức tỉnh nơi người Kitô hữu một ước muốn mạnh mẽ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho nó trong thế giới để xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn. Từ Bí Tích Thánh Thể, trải qua các thế kỉ, một kho tàng bao la của đức bác ái đã trào ra, chia sẻ những khó khăn với người khác, chia sẻ tình yêu và công bằng. Chỉ từ Bí Tích Thánh Thể nền văn minh tình yêu mới xuất hiện, mới biến đổi Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê, tạo cho chúng trở nên không chỉ Lục Ðịa của Hi Vọng, mà còn Lục Ðịa của Tình Yêu.

Các Vấn đề Chính Trị và Xã Hội

Ðến đây, chúng ta có thể tự đặt ra một câu hỏi: làm thế nào Giáo Hội có thể đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội chính trị cấp bách, và đáp ứng cho sự thách thức lớn lao của nghèo đói và cùng cực? Các vấn đề của Châu Mĩ La Tinh và vùng Caribê, cũng như các vấn đề trong thế giới hôm nay thật đa dạng và phức tạp, chúng không thể được giải quyết bằng những chương trình chung. Một cách chắc chắn, câu hỏi căn bản về cách thế mà Giáo Hội, được soi sáng bởi đức tin vào Chúa Kitô, phải ứng đối trước các thách đố này, là một câu hỏi liên quan đến tất cả chúng ta.Trong bối cảnh này chúng ta phải nói về vấn đề cơ cấu, nhất là những cơ cấu tạo ra sự bất công. Quả thật, những cơ cấu chính đáng là một điều kiện mà không có nó, một trật tự công bằng trong xã hội sẽ bất khả thi. Nhưng các cơ cấu đó xuất hiện như thế nào? Chúng hoạt động ra sao? Cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Mác-xít đều hứa là vạch ra con đường để tạo lập những cơ cấu công bằng, và chúng lớn tiếng rằng các cơ cấu này, một khi được thiết lập, sẽ tự mình hoạt động; chúng tuyên bố rằng chẳng những nó không cần đến tính luân lí cá nhân ưu tiên nào, chúng sẽ chỉ phát huy tính luân lí xã hội. Và lời hứa mang tính ý thức hệ này được chứng minh là giả dối. Các sự kiện đã chứng tỏ điều đó một cách hiển nhiên. Hệ thống Mác-xít, nơi nó xây dựng đường lối đi vào chính quyền, không chỉ để lại một di sản đáng buồn về kinh tế và sự huỷ diệt môi trường, mà còn là sự huỷ diệt tan nát tinh thần con người. Chúng ta cũng có thể thấy điều tương tự xảy ra ở Phương Tây, nơi khoảng cách giữa giàu và nghèo đang gia tăng, đồng thời tạo ra một sự suy thoái đáng buồn về phẩm giá của nhân cách qua ma tuý, rượu chè và những ảo tưởng về hạnh phúc.

Như tôi đã nói, các cơ cấu chính đáng là một điều kiện thiết yếu cho một xã hội công bằng, nhưng chúng không thể xuất hiện và không thể hoạt động mà không có sự đồng tâm nhất trí của xã hội về các giá trị căn bản, và về nhu cầu sống các giá trị này với những hi sinh cần thiết, dù điều này đi ngược lại lợi ích các nhân.

Ở đâu Thiên Chúa vắng bóng - Thiên Chúa với dung mạo con người của Ðức Giêsu Kitô - các giá trị này không thể tự tỏ hiện với sức mạnh tròn đầy của nó và một sự đồng tâm nhất trí về các giá trị đó cũng không thể xuất hiện. Tôi không có ý nói rằng những người không tin thì không thể sống một đời sống luân lí gương mẫu và cao thượng; tôi chỉ muốn nói rằng một xã hội mà vắng bóng Thiên Chúa thì không thể tìm được một tiếng nói chung về các giá trị luân lí hoặc sức mạnh để sống phù hợp với mẫu mực của các giá trị này, dù cả khi họ gặp xung đột với nhau giữa các lợi ích riêng tư.

Mặt khác, những cơ cấu chính đáng phải được tìm tòi và xây dựng theo ánh sáng của các giá trị căn bản, với sự cam kết đầy đủ về các liên hệ chính trị, kinh tế và xã hội. Chúng là một trật tự đúng lí (recta ratio) và không xuất phát từ các ý thức hệ, cũng không từ các tiền đề của nó. Chắc chắn vẫn tồn tại một gia sản to lớn về kinh nghiệm chính trị cũng như chuyên môn về các vấn đề xã hội kinh tế, trình xuất những yếu tố căn bản cho một nhà nước chân chính cũng như những đường lối cần phải tránh. Nhưng trong những hoàn cảnh văn hoá và chính trị khác nhau, giữa sự phát triển không ngừng về kĩ thuật và những biến chuyển trong thực tế lịch sử của thế giới, những câu trả lời thích đáng phải được tìm kiếm theo cách hợp lí, và một sự đồng thuận phải được đề ra, trên những cơ cấu phải được thiết lập - với những dấn thân cần thiết.

Vai trò chính trị không phải là phận vụ trực tiếp của Giáo Hội. Tôn trọng tính trần tục chính đáng - gồm cả sự đa dạng về các ý kiến chính trị - là thiết yếu trong truyền thống Kitô giáo đích thực. Nếu Giáo Hội phải thay đổi chính mình thành một chủ thể chính trị trực tiếp, thì Giáo Hội sẽ hành động ít hơn chứ không nhiều hơn, cho người nghèo và cho công bằng, bởi vì Giáo Hội đánh mất sự độc lập của mình, cũng như thẩm quyền luân lí của mình, khi tự đồng hoá với một đường lối chính trị cá biệt và với những lập trường phe đảng có thể gây tranh luận. Giáo Hội là người bênh vực cho công lý và cho người nghèo, chính bởi vì Giáo hội không đồng hoá với các chính trị gia cũng không đứng vào các lợi ích của đảng phái. Chỉ bằng cách đứng độc lập mà Giáo Hội có thể dạy bảo những tiêu chuẩn cao quý và những giá trị bền vững, hướng dẫn lương tâm và trình bày một lập trường chọn lựa sự sống vượt trên bầu khí chính trị. Huấn luyện lương tâm, là trạng sư của công lý và sự thật, giáo dục cá nhân và các đức tính chính trị: đó là ơn gọi nền tảng của Giáo Hội trong những lãnh vực này. Và những người giáo dân Công giáo phải ý thức trách nhiệm của mình trong đời sống công cộng; họ phải hiện diện trong việc hình thành tiếng nói chung cần thiết và chống lại bất công.

Những cơ cấu chính đáng sẽ chẳng bao giờ hoàn hảo một cách dứt khoát. Khi lịch sử tiếp tục biến đổi, những cơ cấu này phải thường xuyên được canh tân và cập nhật; chúng phải luôn luôn thấm đẫm một nền đạo đức chính trị và nhân đạo - và chúng ta phải hết sức nỗ lực để bảo đảm sự hiện diện cũng như hiệu quả của nền đạo đức ấy. Nói cách khác, sự hiện diện của Thiên Chúa, tình bằng hữu với Con Thiên Chúa nhập thể, ánh sáng của Lời Chúa; đây luôn là những điều kiện nền tảng cho sự có mặt và tính hữu hiệu của công lí và tình yêu trong các xã hội của chúng ta.

Ðây là một Lục Ðịa của những Kitô hữu đã được chịu phép rửa tội, đã đến lúc phải thoát khỏi sự vắng mặt quá rõ - trong bầu khí chính trị, trong thế giới truyền thông và trong các đại học - bằng những tiếng nói của những nhà lãnh đạo Công Giáo với những nhân vật có uy thế và sự hy sinh quảng đại của họ, những người luôn gắn bó với các xác tín tôn giáo và đạo đức của mình. Những phong trào Giáo Hội ở đây có nhiều nơi chốn để nhắc nhớ giáo dân về bổn phận cũng như sứ mệnh của họ là đem ánh sáng Tin Mừng vào đời sống công cộng, vào văn hoá, kinh tế và chính trị.

 

5. Những Lãnh Vực Ưu Tiên Khác

Ðể đem lại sự canh tân trong Giáo Hội đã được uỷ thác cho sự chăm sóc của anh chị em trong những miền đất này, tôi xin hướng sự quan tâm của anh chị em đến một vài lĩnh vực mà tôi coi là ưu tiên trong giai đoạn mới này.

Gia đình, "di sản của nhân loại", tạo nên một trong những kho tàng quan trọng nhất của các nước Châu Mĩ La Tinh. Gia đình đã và vẫn là trường dạy đức tin, nền tảng - huấn luyện các giá trị nhân bản và dân sự, là môi trường tạo sinh sự sống con người, được chào đón một cách quảng đại và có trách nhiệm. Qủa thật là đau đớn vì một trào lưu nghịch cảnh gây ra bởi trào lưu tục hoá và bởi chủ thuyết tương đối về đạo đức, bởi những phong trào dân tộc bên trong và ngoại lai, bởi nghèo túng, bởi bất ổn xã hội và bởi luật pháp dân sự đối kháng với hôn nhân, ủng hộ việc thụ thai nhân tạo và li dị, đang đe doạ tương lai cuả các dân tộc.

Ðáng buồn thay, nơi một số gia đình tại Châu Mĩ La Tinh, vẫn còn tồn tại tâm thức khinh miệt phụ nữ mà không đón nhận "tính mới mẻ" của Kitô Giáo, trong đó phẩm giá bình đẳng và trách nhiệm của những phụ nữ được người chồng nhìn nhận và khẳng định.

Gia đình là không thể thay đổi, vì sự an lành cá nhân nó mang lại và vì việc giáo dục con cái. Các bà mẹ muốn dành trọn hi sinh để nuôi nấng con cái và để phục vụ gia đình của họ phải được hưởng những điều kiện làm cho điều này khả thi, và để đạt được nguyện vọng đó, họ có quyền yêu cầu sự trợ giúp của Nhà Nước. Quả thật, vai trò của bà mẹ là thiết yếu cho tương lai của xã hội.

Về phần mình, người cha có bổn phận trở nên một người cha đích thực, chu toàn bổn phận thiết yếu của mình và cộng tác trong việc nuôi dạy con cái. Con cái, để đạt được sự phát triển toàn diện, có quyền cậy nhờ cha mẹ chúng, những người chăm sóc và tháp tùng chúng trên con đường tiến tới sự sống sung mãn. Bởi đó, cần có sự chăm sóc mục vụ chặt chẽ và nhiệt thành đối với các gia đình. Hơn nữa, cần phải phát huy những chính sách thực tế về gia đình, hợp với những quyền của gia đình như một chủ thể căn bản trong xã hội. Gia đình tạo nên một phần của điều thiện hảo trong dân chúng và trong toàn thể nhân loại.

Các Linh Mục

Những người đầu tiên theo đuổi ơn gọi làm môn đệ và ơn gọi truyền giáo là những người đã được kêu gọi "ở với Chúa Giêsu và được sai đi để rao giảng" (x. Mc 3,14), đó là các linh mục. Họ phải được đón nhận sự quan tâm ưu tiên và lòng chăm sóc hiền phụ từ các Giám Mục của họ, bởi vì họ là những người trước tiên chủ động sự canh tân đích thực đời sống Kitô giữa Dân Chúa. Tôi xin gửi đến họ lời yêu thương của một người cha, hi vọng rằng "Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của họ" (x. Tv 16,5). Nếu linh mục đặt Chúa là nền tảng và trung tâm của đời mình, họ sẽ cảm nghiệm được niềm vui và thành quả trong ơn gọi của mình. Linh mục trước hết phải là một "người của Thiên Chúa" (1Tm 6,11), người trực tiếp biết Thiên Chúa, người có một tình bằng hữu cá nhân với Chúa Giêsu, người chia sẻ với tha nhân cùng một tâm tình mà Chúa Kitô đã có (x. Pl 2.5). Chỉ như vậy linh mục mới có thể dẫn người khác đến với Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô nhập thể, và tiêu biểu cho tình yêu của Người. Ðể chu toàn bổn phận cao quý này, linh mục phải có một sự đào tạo thiêng liêng vững chắc, và toàn bộ cuộc đời của họ phải thấm đẫm đức tin, đức cậy và đức mến. Như Chúa Giêsu, họ phải là người, qua việc cầu nguyện, tìm kiếm dung mạo và thánh ý Thiên Chúa, đồng thời họ phải quan tâm đến việc chuẩn bị trí thức và văn hoá của mình.

Các linh mục trong Lục Ðịa này thân mến, cùng với một số các con đã đến đây để làm việc trong vai trò thừa sai, Ðức Thánh Cha đồng hành với các con trong những công việc mục vụ và muốn các con trở thành niềm vui và niềm hy vọng tràn đầy; trên hết Ðức Thánh Cha cầu nguyện cho các con.

Các Tu Sĩ Nam Nữ và Những Người sống Ðời Thánh Hiến

Giờ đây Cha muốn nói với các tu sĩ nam nữ và những người giáo dân sống đời thánh hiến. Xã hội Châu Mĩ La Tinh và vùng Caribê cần chứng từ của các con: Trong một thế giới mà người ta thường ưu tiên tìm kiếm sự thoải mái, của cải và lạc thú như là cùng đích của cuộc đời, khi mà người ta tôn vinh tự do đến mức chiếm mất chỗ sự thật về con người được Thiên Chúa tạo dựng, thì các con là những người làm chứng rằng còn có một ý nghĩa khác cho đời sống; hãy nhắc nhở anh chị em của các con rằng Nước Trời đã đến rồi; rằng công lí và sự thật có thể đạt được, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn cho sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa là Cha, của Chúa Kitô người anh và Chúa của chúng ta, và Chúa Thánh Thần, Ðấng An Ủi của chúng ta. Với lòng quảng đại và sự anh hùng, các con phải tiếp tục làm việc để dẫn chứng rằng xã hội được đầy tràn tình yêu, công lý, sự thiện, sự phục vụ và tình liên đới ngự trị, hợp với đặc sủng của các đấng sáng lập. Với niềm vui sâu xa, hãy ôm trọn ơn thánh hiến, đó là một khí cụ để thánh hoá các con và khí cụ của ơn cứu chuộc cho anh chị em của các con.

Giáo Hội tại Châu Mĩ La Tinh cảm ơn các con vì những công trình lớn lao các con đã hoàn thành qua bao thế kỉ, vì Tin Mừng của Chúa Kitô, đem lại lợi ích cho biết bao anh chị em của các con, đặc biệt cho những người nghèo khổ nhất và những người bị bóc lột nhất. Cha mời gọi các con hãy luôn cộng tác với các Giám Mục và làm việc trong sự hiệp nhất với các ngài, bởi vì các ngài chịu trách nhiệm về các hoạt động mục vụ. Cha cũng khích lệ các con chân thành tuân phục thẩm quyền Giáo Hội. Ðừng đặt ra cho mình mục tiêu nào khác hơn là sự thánh thiện, như các con đã học hỏi từ đấng sáng lập của các con.

Người tín hữu giáo dân

Vào thời điểm mà Giáo Hội tại Lục Ðịa này đang hết lòng dấn thân cho ơn gọi truyền giáo, tôi nhắc nhở các tín hữu giáo dân rằng họ cũng là Giáo Hội, cộng đoàn được Chúa Kitô quy tụ để làm chứng cho toàn thế giới. Mọi người nam nữ đã được rửa tội phải ý thức rằng họ được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Linh mục, Tiên Tri và Mục Tử bằng chức tư tế chung của Dân Chúa. Họ phải tự coi mình có trách nhiệm chung để xây dựng xã hội theo các tiêu chuẩn của Tin Mừng, với lòng nhiệt thành và dạn dĩ, trong tình hiệp thông với các Mục Tử của họ.

Có nhiều người trong anh chị em đây thuộc về các phong trào giáo hội, trong đó chúng ta nhận ra các dấu chỉ của sự hiện diện khác nhau và ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo Hội và trong xã hội hôm nay. Anh chị em được kêu gọi để đem cho thế giới chứng từ của Chúa Giêsu Kitô, và trở thành men của tình yêu Thiên Chúa giữa người khác.

Các bạn trẻ và việc chăm sóc mục vụ ơn gọi

Tại Châu Mỹ La tinh đại đa số người dân là giới trẻ. Vì vậy, chúng ta phải nhắc nhở họ rằng ơn gọi của họ là trở nên bạn hữu của Chúa Kitô, môn đệ của Người. Giới trẻ không sợ hi sinh, nhưng sợ một cuộc sống không có ý nghĩa. Họ dễ cảm thụ lời gọi của Chúa Kitô mời gọi họ bước theo Người. Họ có thể đáp trả lời gọi ấy để trở thành linh mục, tu sĩ nam nữ, hoặc các người cha, người mẹ trong gia đình, hi sinh trọn vẹn để phục vụ các anh chị em của họ, dành trọn thời giờ và khả năng cho sự cống hiến: trọn cuộc đời của họ. Giới trẻ phải sử dụng đời sống như một sự khám phá liên lỉ, đừng bao giờ tự để cho mình bị sa vào các thời trang hoặc tâm thức hiện tại, nhưng tiến xa trong việc tìm hiểu thấu đáo về ý nghĩa của đời sống và mầu nhiệm Thiên Chúa, Chúa Cha Tạo Dựng, và Chúa Con, Ðấng Cứu Chuộc, trong gia đình nhân loại. Họ cũng phải dấn thân để luôn canh tân thế giới theo ánh sáng của Tin Mừng. Còn hơn thế nữa, họ phải chống lại những ảo tưởng dễ dãi và hạnh phúc thoáng qua và thiên đường lừa dối của ma tuý, khoái lạc, rượu chè, cũng như phải chống lại mọi hình thức bạo lực.

 

6. "Hãy ở lại với chúng tôi"

Những quyết định của Hội Nghị Khoáng Ðại Lần Thứ Năm dẫn chúng ta nhắc đến lời thỉnh cầu của các môn đệ trên đường Emmaus: "Hãy ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24, 29).

Lạy Chúa, hãy ở lại với chúng con, hãy đồng hành với chúng con dù chúng con không luôn luôn nhận ra Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con, bởi vì chung quanh chúng con bóng tối đang tiến dần, và Chúa là Ánh Sáng; sự nản lòng thất vọng đang ăn mòn tâm hồn chúng con: xin hãy đốt cháy tâm hồn ấy bằng sự đoan chắc của Lễ Phục Sinh. Chúng con mệt mỏi trên cuộc hành trình, nhưng Chúa an ủi chúng con qua việc bẻ bánh, để chúng con có thể loan báo cho anh chị em chúng con rằng Ngài đã sống lại thật, và đã trao cho chúng con sứ mệnh trở nên nhân chứng cho sự phục sinh của Ngài.

Lạy Chúa, xin hãy ở lại với chúng con, khi sương mù của nghi nan, của kiệt quệ hoặc khó khăn xuất hiện trong đức tin Công Giáo của chúng con; Ngài là chính Sự Thật, Ngài là Ðấng mặc khải Chúa Cha cho chúng con: hãy thắp sáng tâm trí chúng con bằng Lời Chúa, xin hãy giúp chúng con cảm nghiệm được vẻ đẹp của việc tin nhận Chúa.

Hãy ở lại trong gia đình của chúng con, hãy thắp sáng gia đình chúng con trong cơn nghi nan ngờ vực, hãy nâng đỡ gia đình chúng con trong những khó khăn, hãy an ủi gia đình chúng con trong những khi đau khổ và trong những lao nhọc hằng ngày, khi mà chung quanh nó bóng tối xuất hiện đe doạ sự duy nhất và yếu tính tự nhiên của gia đình. Chúa là chính Sự Sống: hãy ở lại trong nhà của chúng con để nó vẫn là những tổ ấm, nơi sự sống con người được sinh ra một cách quảng đại, nơi sự sống được chào đón, được yêu thương và được tôn trọng từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên.

Lạy Chúa, xin hãy ở lại với những người trong các xã hội của chúng con, những người bị tổn thương nhất; hãy ở lại với những người nghèo và những người thấp cổ bé miệng, với các dân bản xứ và những người Mỹ - Phi, những người đã không luôn tìm được nơi chốn và sự nâng đỡ để diễn đạt sự phong phú về văn hoá cũng như sư tâm thức về căn tính của mình. Lạy Chúa, xin hãy ở lại với các trẻ em và giới trẻ của chúng con, chúng là niềm hi vọng và là kho tàng của Lục Ðịa chúng con, xin hãy che chở chúng khỏi những nanh vuốt đang tấn công sự hồn nhiên và những niềm hi vọng chính đáng của chúng. Lạy Mục Tử Nhân Lành, xin hãy ở lại với những bậc cao niên và những người đau yếu của chúng con. Hãy làm cho họ được vững mạnh trong đức tin, để họ có thể trở thành những môn đệ và thừa sai của Chúa!

 

Kết luận

Khi kết thúc chuyến viếng thăm anh chị em, tôi xin khẩn cầu sự che chở của Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội cho anh chị em cũng như cho toàn Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê. Tôi cầu xin Ðức Mẹ cách riêng, dưới tước hiệu Guadalupe, Bổn Mạng Châu Mỹ, và dưới tước hiệu Aparecida, Bổn Mạng nước Bra-xin đồng hành với anh chị em trong trách nhiệm mục vụ đầy phấn khích nhưng cũng hết sức gắt gao này. Tôi xin phó dâng Dân Chúa cho Mẹ trong giai đoạn thiên niên kỉ Kitô giáo thứ ba này. Tôi cũng cầu xin Mẹ hướng dẫn các quyết định và suy tư của Hội Nghị Chung, đồng thời xin Mẹ ban muôn ơn lành cho các dân tộc yêu quý của Lục Ðịa này.

 

+ ÐGH Benedictô XVI

 

(LM Ngô Quang Trung và Ðặng Minh An dịch)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page