Bài Giới Thiệu của ÐTGM Paul Josef Cordes

về Thông Ðiệp của ÐTC Bênêđitô XVI

Thiên Chúa là Tình Yêu

 

Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines

 

Bài Giới Thiệu của Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh Ðồng Tâm, về Thông Ðiệp Ðầu Tiên của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI Thiên Chúa là Tình Yêu.

(Radio Veritas Asia 31/01/2006) - Quý vị và các bạn thân mến. Trong thời gian qua, mục thời sự đã gởi đến quý vị và các bạn trọn vẹn hai bài giới thiệu, một của Ðức Hồng Renato Martino, chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình, và một của Ðức Tổng Giám Mục Levada, tổng trưởng bộ giáo lý đức tin. Hôm nay, mục thời sự bắt đầu gởi đến quý vị và các bạn bài giới thiệu thứ ba, trong cuộc họp báo ngày 25 tháng Giêng năm 2006, tức là bài của Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh "Ðồng Tâm", giới thiệu Thông Ðiệp đầu tiên của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI, "Thiên Chúa là Tình Yêu" (Deus Caritas Est), trên bình diện họat động từ thiện bác ái. Mở đầu bài thuyết trình của mình, Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes đã nói như sau:

 

Ngay từ lúc được thành lập, Giáo Hội thể hiện công việc cứu rỗi trong sứ mạng của mình: giáo hội loan báo ơn cứu chuộc được Chúa Giêsu Kitô thực hiện; giáo hội làm chứng cho ơn cứu chuộc nhờ qua tình bác ái, và giáo hội cử hành hồng ân cứu rỗi trong phụng vụ. Loan Báo và Làm chứng (Mar-ty-ria), Phục vụ (dia-ko-nia) và cử hành phụng vụ (Lei-tur-gia) là ba công việc của một trách vụ duy nhất của Giáo Hội. Ba công việc này hoà nhập với nhau. Vì thế, nếu người ta cất bỏ đi một công việc trong những họat động của giáo hội, thì giáo hội trở thành kẻ "khuyết tật". Chính Chúa Giêsu hướng sứ mạng của Người về cùng Thiên Chúa Cha. Trong lần trở về quê hương Nazareth, Chúa Giêsu quy hướng công việc cứu rỗi của Ngài về cùng Thiên Chúa Giavê, khi trích lại câu kinh thánh: "Giavê Thiên Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo sự giải phóng cho kẻ bị tù đày, mang lại ánh sáng cho kẻ mù loà, giải thoát những ai bị đàn áp và công bố Năm Hồng Ân của Thiên Chúa" (Lc 4, 18tt). Giáo Hội tiếp tục thực hiện những công việc tốt lành của Chúa.

Một thí dụ cụ thể: chúng ta hãnh diện nhìn thấy mới đây phản ứng rộng rãi trợ giúp cho những nạn nhân sóng thần, cả từ phía những người công giáo. Tổ Chức Caritas Quốc Tế trên thế giới đã quyên góp được 400 triệu mỹ kim, để phân phối cho các dự án cứu trợ. Ðiều này xác nhận sức mạnh của tình thương bác ái của giáo hội trước những nhu cầu của con người. Ðó là chưa kể đến biết bao điều mà người kitô đã âm thầm thực hiện cho những anh chị em nghèo cùng.

Kính thưa quý vị, đó là vài sự kiện nhập đề cho phần trình bày của tôi về Thông Ðiệp "Thiên Chúa là Tình Yêu" của Ðức Bênêđitô XVI. Cũng như những vị tiền nhiệm của ngài, giờ đây, đức Bênêđitô XVI muốn vạch ra, với Văn Kiện đầu tiên này, những đường nét căn bản của triều giáo hoàng của ngài vừa mới bắt đầu. Ðồng thời chúng ta cũng nên ghi nhận rằng Văn Kiện này là Thông Ðiệp tuyệt đối đầu tiên trong lịch sử giáo hội nói về Tình Yêu Bác Ái.Vì thế, Ðức Thánh Cha đã muốn trao cho vị Chủ Tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng Ðồng Tâm trách vụ trình bày thông điệp này cho giới báo chí Tai sao lại trao cho Hội Ðồng chúng tôi trách vụ này? Có lẽ bởi vì Hội Ðồng chúng tôi có bổn phận thực thi những sáng kiến của Ðức Thánh Cha, như là dấu chỉ cho lòng nhân từ trong vài hoàn cảnh nghèo cùng.

Quý vị, -- những nguời đã biết trách vụ của Hội Ðồng Toà Thánh Ðồng Tâm, -- có thể quý vị không chờ đợi nơi người đang nói chuyện với quý vị đây, trong dịp công bố văn kiện này, trình bày một luận đề thần học về "triết lý" của chúng ta. Tình bác ái của Giáo Hội được kết thành bởi những họat động cụ thể, chẳng hạn như mới đây tại Pakistan, và tại vùng Darfur bên nuớc Sudan, mà tôi vừa đến thăm nhân danh Ðức Thánh Cha. Chúng tôi muốn cổ võ ý thức về công bằng trong xã hội và mời gọi các tín hữu hãy góp phần trợ giúp, qua những cuộc lạc quyên giúp cho những nạn nhân của tai ương. Tất cả những điều này cho thấy rằng giáo hội họat động và tranh đấu như thế nào, để phục vụ cho những ai đau khổ. Ai đó có thể nghĩ rằng để có thể dấn thân cách hữu hiệu cho điều thiện hảo của nhân lọai, thì chỉ cần thực hiện những họat động mà tôi vừa kể lại trên đây, là đủ. Ai đó có thể nghĩ rằng họat động cho người nghèo có nghĩa là thực hiện những việc cụ thể, những kỹ thuật, những biện pháp hành chánh. Và rằng họat động không cần có lý thuyết đi kèm. Họ nghĩ rằng để giúp cho kẻ khác, chỉ cần hành động mà thôi. Tắt một lời chỉ cần hành động đúng mà thôi (orthoprassi).

Nhưng, không phải như vậy. Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã muốn soi sáng sự dấn thân thực hiện bác ái, bằng một nền tảng thần học. Ngài thức tỉnh chúng ta hãy chú ý đến tinh thần hướng dẫn chúng ta trong việc cho đi, trong việc đề ra những giải pháp đáp lại những kẻ đau khổ. Ngài xác tín rằng đức tin có những hệ luận trên chính người dấn thân hành động, và trên cách thức cũng như trên cường độ của hành động cứu trợ. Ðức Thánh Cha muốn đưa vào trong cái nhìn chúng ta về sự trợ giúp nhân đạo, những yếu tố đặc biệt mà người kitô phải chú ý đến. Ðức Thánh Cha biết rằng những phương tiện vật chất không đủ để con người thoả mãn những nhu cầu của mình.

Như đã được trình bày, việc thực thi tình bác ái là thành phần không thể nào bỏ đi được của phần gia tài mà Ðấng Cứu Thế để lại cho chúng ta. Thử hỏi, tại sao chỉ trong thế kỷ chúng ta đây mới có một thông điệp về Ðức Bác Ái? Câu hỏi hoàn toàn hợp lý. Nhưng chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên nữa, nếu nhìn về lịch sử của Giáo Hội.

Khi thi hành sứ mạng đã lãnh nhận, các thánh Tông đồ và những sứ giả đầu tiên của Ơn Cứu Rỗi đã muốn bắt chước gương của Chúa Giêsu, hiện thân sự tốt lành của Thiên Chúa Cha. Vì thế các ngài đã muốn trợ giúp cho những nhu cầu của con người. Hành động trợ giúp này đã được các ngài hiểu và thực hiện, để làm cho lời rao giảng của các ngài về thời đại mới của ơn cứu rỗi, được đáng tin hơn. Tác giả của Thư gởi cho Ông Diô-nê-tô, vào năm 160 sau Chúa Kitô, nói cho chúng ta biết như sau: "Ai mang lấy trên mình gánh nặng chăm sóc người lân cận, ai muốn trợ giúp cho kẻ yếu đuối, ai muốn chia sẻ cho những kẻ nghèo điều mình có, thì kẻ đó trở thành "như chúa" đối với người nhận. Kẻ làm như vậy là kẻ bắt chước Thiên Chúa. Và chỉ như thế bạn mới thấy được trên trần gian này rằng, trên trời có Vì Thiên Chúa ngự trị" (Ch. 10). Như thế, các thành phần của Giáo Hội ngay từ đầu lãnh lấy trách vụ chăm sóc cho những nhu cầu của những kẻ đau khổ, họăc với tư cách cá nhân hoặc cách tập thể. "Thực thi đức bác ái" đương nhiên trở thành phản ánh của lời rao giảng ơn cứu rỗi.

Vào thế kỷ thứ XIX, việc phát triển kỹ nghệ đã làm cho nạn nghèo cùng gia tăng, đến độ cho rằng chỉ việc tạo ra những cơ cấu xã hội mới, công bằng hơn, mới đủ sức đương đầu với nạn nghèo cùng này. Trong thông điệp của ngài, Ðức Bênêđitô XVI nhìn nhận rằng những vị chủ chăn chỉ từ từ hiểu về sự khẩn thiết của vấn đề xã hội và trình bày lập trường của các ngài về vấn đề này. Ðức Bênêđitô XVI nhắc đến công việc có tính cách tiên tri của Ðức Cha Von Ketteler, giám mục Mainz, qua đời năm 1877, và nhắc đến nhiều dòng tu khác nhau, ngay từ đầu thế kỷ thứ 19, đã dấn thân tranh đấu chống lại nạn nghèo đói, bệnh tật, và dấn thân trong lãnh vực giáo dục. Năm 1891, được ban hành thông điệp "Tân Sự" của Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII; đây là văn kiện căn bản của học thuyết xã hội của giáo hội, một văn kiện cần đuợc xem như là "phần kết thành" suy tư thần học về vấn đề xã hội mới mẽ này. Thông Ðiệp "Tân Sự" của Ðức Lêô XIII có tích chứa những đòi hỏi rõ ràng về một nền công bằng xã hội nhiều hơn. Những vị giáo hoàng kế tiếp, --- trong những văn kiện trình bày giáo huấn của các ngài, --- đã bổ túc cho giáo huấn của Ðức Lêô XIII bằng những nguyên tắc luân lý thêm nữa, cho đến Ðức Gioan Phaolô II, mà Ðức Bênêđitô XVI của chúng ta hiện nay, đã gọi là " vị tiền nhiệm vĩ đại" của ngài. Thật vậy, Ðức Gioan Phaolô II là Vị Giáo Hoàng đã để lại cho chúng ta ba thông điệp về vấn đề xã hội. Chính Ðức Gioan Phaolô II cũng đã nghĩ đến --- và Ðức Bênêđitô XVI biết rõ điều này --- (nghĩ đến) việc công bố một thông điệp về Tình Yêu Bác Ái, nhưng rồi không còn có thể thực hiện ước muốn này được nữa.

 

Quý vị và các bạn thân mến,

Trong mục thời sự lần trước, chúng ta đã nghe Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes trình bày về Thông Ðiệp "Thiên Chúa Là Tình Yêu", trong viễn tượng của họat động từ thiện bác ái. Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes đã nhấn mạnh rằng, trong thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", "Ðức Thánh Cha Bênêđitô đã muốn soi sáng sự dấn thân thực hiện bác ái, bằng một nền tảng thần học. Ngài thức tỉnh chúng ta hãy chú ý đến tinh thần hướng dẫn chúng ta trong việc cho đi, trong việc đề ra những giải pháp đáp lại những kẻ đau khổ. Ngài xác tín rằng đức tin có những hệ luận trên chính người dấn thân hành động, và trên cách thức cũng như trên cường độ của hành động cứu trợ. Ðức Thánh Cha muốn đưa vào trong cái nhìn chúng ta về sự trợ giúp nhân đạo, những yếu tố đặc biệt mà người kitô phải chú ý đến. Ðức Thánh Cha biết rằng những phương tiện vật chất không đủ để con người thoả mãn những nhu cầu của mình. Như đã được trình bày, việc thực thi tình bác ái là thành phần không thể nào bỏ đi được của phần gia tài mà Ðấng Cứu Thế để lại cho chúng ta. Thử hỏi, tại sao chỉ trong thế kỷ chúng ta đây mới có một thông điệp về Ðức Bác Ái? Câu hỏi hoàn toàn hợp lý. Và chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên nữa, nếu nhìn về lịch sử của Giáo Hội." Vậy, trong bài thời sự lần này, chúng ta hãy cùng nhìn về lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội, theo như phần trình bày của Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, như sau:

 

Những Văn Kiện của Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội có tích chứa vô số những lời kêu gọi hãy tranh đấu chống lại những đau khổ của con người, tranh đấu một cách cá nhân cũng như cộng đồng. Thế nhưng tại sao đến ngày hôm nay mới có những tuyên bố của đức giáo hoàng về Ðức Bác Ái, và là những tuyên bố có cung cách và nội dung rõ ràng khác biệt với những thông điệp về xã hội đã được cộng bố? Xin quý vị hãy cho phép tôi đưa ra vài câu trả lời.

Học thuyết xã hội của giáo hội và thần học về Tình Yêu Bác Ái chắc chắn có liên hệ với nhau, nhưng không giống như nhau. Thật vậy, Học thuyết xã hội của giáo hội đề ra những nguyên tắc luân lý cho việc đi tìm công ích, và như thế khai triển vấn đề trên bình diện có tính cách chính trị và liên quan đến cộng đồng. Trái lại việc thực hiện công cuộc chăm sóc cho những đau khổ con người, một cách cá nhân cũng như cộng đồng, thì không đòi buộc phải có một lý thuyết mạch lạc. Việc chăm sóc này phát sinh từ những lời của đức tin. Chính vì lý do này mà trong lịch sử của giáo hội, công việc từ thiện bác ái không phải như là một cơ cấu được hoạch định một cách trí thức theo lý thuyết, nhưng là công việc luôn hiện diện sẳn bên cạnh công việc rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Hơn nữa công việc chăm sóc như thế được chu toàn nơi đương sự biết cho đi chính mình để phục vụ anh chị em. Công việc phục vụ này diễn dịch giáo huấn của Tân Ước, và múc lấy những lý do động viên từ những hình ảnh hết sức hùng hồn và có liên quan đến cuộc sống con người, trong giáo huấn của Tân Uớc.

Xét vì những thách thức mà xã hội hôm nay đặt ra cho chúng ta, xem ra như đã đến lúc để xác định cách rõ ràng, một cách theo suy tư thần học, điều mà giáo hội hiểu và thực hiện, khi hoạt động phục vụ cho con người. Với niềm xác tín nhiều hơn, chúng ta cần để cho ý nghĩa của đức bác ái kitô được ăn rễ sâu trong tâm hồn chúng ta. Và làm như thế, không phải vì một vấn đề khó khăn đến từ bên ngoài, vì nhà nước hay một thẩm quyền hiện hữu chối bỏ những nguyên tắc căn bản của phẩm giá con người. Vấn đề nằm ở chỗ khác: cảm thức chung được phổ biến trong xã hội chúng ta, có đặc tính hết sức "nhân ái"; đây là điều may lành, nhưng cũng có thể là một cạm bẫy. Người ta có thể nghĩ rằng chúng ta không cần đến những gốc rễ kinh thánh để sống tình thương bác ái! Ngày nay, nhiều người sẵn sàng ra tay trợ giúp kẻ đau khổ: và chúng ta vui mừng ghi nhận sự kiện này với tâm tình biết ơn; nhưng điều này có thể gợi lên nơi các tín hữu ý tưởng rằng tình thương bác ái không có liên quan một cách thiết yếu với sứ mạng của giáo hội. Nếu không có một nền tảng thần học vững chắc, những tổ chức lớn của giáo hội có thể bị nguy hiểm trong thực tế, bị tách rời ra khỏi giáo hội, và giảm bớt những liên hệ với các giám mục, và như thế muốn xác định căn cước mình như là một cơ quan phi chính phủ (NGO). Trong những trường hợp như thế, "chính sách" của những cơ quan giáo hội này và của những dự án được các cơ quan nầy đề nghị, có lẽ không có gì khác biệt với Hội Hồng Thập Tự hay những cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, điều nầy hoàn toàn nghịch lại điều đã xảy ra trong lịch sử hai ngàn năm của giáo hội và không để ý đến tuơng quan chặt chẽ giửa hành động của giáo hội để phục vụ con người và giải thích của quyền giáo huấn của giáo hội về câu kinh thánh "Thiên Chúa là Tình Yêu". Chúng ta cần phải đi xa hơn, vượt ra khỏi những giải thích thần học: cảm thức nhạy bén của nhiều người, nhất là của những bạn trẻ, cũng có tích chứa điều mà chúng ta có thể gọi bằng cụm từ "kai-ros" tông đồ, tức "thời của công việc tông đồ". Thời gian tông đồ này mở ra những dự kiến mục vụ đáng kể. Có vô số những thiện nguyện viên và nhiều nguời đi đến việc khám phá tình yêu của Thiên Chúa trong việc hiến thân cho người lân cận bằng một tình yêu không vụ lợi.

Thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu" quả thật là một biến cố hợp thời và có ý nghĩa cho sứ mạng của giáo hội. Ðã đến lúc nhắc đến "nguồn mạch" của sứ mạng này, cho dù không phải là không có những liều lĩnh, khi xây dựng tình thuơng bác ái một hiển nhiên trên nền tảng Thiên Chúa. Việc làm này có thể nhắc ta nhớ lại lời phê bình của Karl Marx đối với những "cơ cấu" đạo đức, mà Karl Marx cho là đã được đưa vào để che dấu những yếu tố kinh tế của mọi sự nghèo cùng. Nhưng lý luận như thế không có sức thuyết phục ai cả. Ðức Thánh Cha bác bỏ rõ ràng lý thuyết của Marl Marx về sự nghèo cùng và gọi lý thuyết của Karl Marx như là một "triết học", một đường lối, làm mất đi nhân phẩm. Thông Ðiệp "Thiên Chúa là Tình Yêu" nói lên -- và không phải chỉ một lần -- rằng Ðức Tin mang đến sức linh động đặc biệt cho công cuộc dấn thân phục vụ kẻ khác. Chẳng hạn như nếu tôi dấn thân trợ giúp cho nguời lân cận chỉ vì một cảm tình tốt mà thôi, thì thử hỏi điều gì xảy ra khi nguời lân cận có thái độ từ chối tôi? Làm sao tôi có thể vượt qua được thái độ chối từ này, nếu không có ân sủng Chúa ban? Hay khi đứng trước thảm cảnh bao la của sự nghèo đói khiến con người ngã lòng không muốn dấn thân nữa, thì thử hỏi tôi có thể gặp được lý do động viên ở đâu để tiếp tục phục vụ, nếu không phải trong xác tín về sự thật Thiên Chúa là người Cha nhân lành và yêu thuơng mọi nguời?

Như là một nhà tư tưởng sắc bén, dĩ nhiên Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI không sợ đối diện với câu hỏi cuối cùng liên quan đến đức tin. Câu hỏi như sau: Sự đau khổ trong thế gian có ý nghĩa như thế nào? Làm sao hoà hợp sự đau khổ đó với tình thương của Thiên Chúa?

 

Quý vị và các bạn thân mến,

Trong bài thời sự lần trước, chúng ta đã nghe Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes lướt qua lịch sử sự dấn thân xã hội của Giáo hội Công giáo trong hai ngàn năm qua. Trong mục thời sự lần này, chúng ta hãy nghe những lời giải thích cụ thể tại sao sự dữ vẫn tiếp tục trong thế giới, và người kitô phải làm gì. Ðức Tổng Giám Mục Cordes đã nói như sau:

 

Phải chăng mọi người có lòng nhân ái đều bị dày vò bởi vấn nạn của Ông Gióp, khi tai ương khủng khiếp diễn ra sờ sờ trước nhan Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Ông Gióp với tâm hồn đầy bận tâm và đau khổ đã thốt lên như sau: "Tôi ước ao muốn biết những lời Chúa đáp lại lời tôi; và tôi sẽ hiểu được điều gì Ngài cần phải nói với tôi. Thử hỏi Thiên Chúa có chấp nhận thảo luận với tôi hay không? Vì thế, trước nhan ngài, tôi đau buồn... Thiên Chúa đã làm tan nát tim tôi; Ðấng toàn năng đã làm tôi đau buồn" (Gb 23, 5tt). Thường tình chúng ta không có câu trả lời giúp hiểu được sự dữ và chúng ta không biết tại sao cánh tay Chúa rút lại và không can thiệp. Tuy nhiên, biến Thiên Chúa một cách đơn giản thành đối tượng để chúng ta lý luận này nọ, là điều không phù hợp với tương quan tình thương mà Thiên Chúa mở ra với chúng ta. Chúng ta cần kiên vững trước tôn nhan Ngài, và vững mạnh trong đối thọai cầu nguyện với Thiên Chúa, cả khi chúng ta bị giao động hoang mang. Lời than van của chúng ta không giả thiết là Thiên Chúa đã sai lầm, đã trở nên yếu thế, hay lãnh đạm. Ngược lại, lời kêu van của con tim chúng ta thốt lên cùng Thiên Chúa, cao rao một lần nữa thẩm quyền tối cao của Ngài. Vì thế, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI nhắc lại cho chúng ta những lời mạnh mẽ và đầy ý nghĩa của thánh Agostinô như sau: "Nếu con hiểu được công việc của Thiên Chúa, thì Ngài không phải là Thiên Chúa nữa!" (Sermo 52,16; PL 328,360).

Chắc chắn rằng câu hỏi về Thiên Chúa là thách thức có tính cách quyết định cho con người ngày nay đang suy nghĩ về thân phận của mình. Khoa "Suy Tư về Thiên Chúa" (thần luận) làm cho tâm hồn con người thao thức, một con người thường coi mình như là chủ nhân của chính mình. Những "Suy Tư Về Thiên Chúa" này đánh động chúng ta trong những hoàn cảnh bất công, hận thù, hoặc khi những thiên tai xảy ra. Nhưng mặc cho tất cả mọi sự tiêu cực, khi những người kitô dấn thân chống lại sự dữ trong nhiều hình thức của nó, thì họ làm như vậy bởi vì Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng biết ơn cứu rỗi. Những người kitô cố gắng lặp lại những dấu chỉ xác nhận Chúa Giêsu là Ðấng Thiên Sai. Khả năng này đến từ sự thật "Thiên Chúa là Tình Yêu" (Deus Caritas est). Chỉ cần nhớ lại ảnh hưởng của chân phước Mẹ Têrêsa. Chân Phước này đã thuyết phục chúng ta rằng nhiều người đương thời đang đói khát được yêu thương. Những họat động của Chân Phước Mẹ Têrêsa chứng minh sức linh động mà tình yêu bác ái có thể làm nẩy sinh trong xã hội chúng ta. Vị sáng lập dòng các Nữ Tu Bác Ái, với chú tâm đến những ước mong sâu xa nhất của con người, đã xác nhận rằng Ðức Thánh Cha BênêđitôXVI, với thông điệp đầu tiên của ngài, đã trao cho chúng ta một sứ điệp vĩ đại.

Việc công bố Thông Ðiệp, đối với Hội Ðồng Toà Thánh Ðồng Tâm, xem ra như là dịp may duy nhất để suy nghĩ cùng với toàn thể giáo hội làm sao nội dung của thông điệp có tác động và tái động viên hoạt động từ thiện của chúng ta, sao cho con người ngày nay có thể hiểu mỗi ngày một sâu xa hơn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế, chúng tôi đã mời những vị hữu trách về những công việc từ thiện của giáo hội từ khắp nơi trên thế giới -- gồm giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân -- đến tham dự Ðại Hội,được tổ chức tại Vatican, trong hai ngày 23 và 24 tháng Giêng (năm 2006), trong phòng Họp Mới của Thượng Hội Ðồng Giám Mục. Ðại Hội bàn về sự cộng tác giữa những cơ cấu phục vụ công chúng và những dịch vụ công giáo, và cho thấy tính cách phổ biến rộng rãi của muôn hình thức phục vụ người nghèo. Ðã có lời phát biểu của hai nhân vật trong thế giới điện ảnh và truyền hình, đã diễn đạt sự nhạy cảm hiện nay về tình yêu theo nghĩa Eros và tình yêu Agapê. Còn có những nhân vật quan trọng phát biểu ý kiến như: Ðức Hồng Y Etchegaray, Roma; Ðức Hồng Y George, Tổng Giáo Phận Chicago, Hoa Kỳ; Ðức Tổng Giám Mục Diarmuid Martin, Tổng Giáo Phận Dublinô; Cựu Chủ Tịch Ngân hàng Thế Giới, Ông James Wolfensohn; Vị chủ tịch Caritas Quốc Tế, Ông Denis Viênot; nhà đạo diễn nổi danh Liliana Cavanoi. Tiến Sĩ Navarro Valls góp phần điều hành buổi họp.

Như quý vị đã biết, ÐTC đã tiếp kiến nhóm chúng tôi và đã ngỏ lời với chúng tôi. Ðây là dấu hiệu hiển nhiên cho biết rằng ÐTC muốn cho thông điệp của ngài được phổ biến. Tôi hy vọng là tất cả quý vị sẽ giúp đỡ chúng tôi trong công việc nầy.

 

Quý vị và các bạn thân mến,

Như thế, chúng ta kết thúc phần đọc bài thuyết trình của Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, giới thiệu thông điệp của ÐTC Bênêđitô XVI "Thiên Chúa làTình Yêu". Hẹn gặp lại quý vị và các bạn.

 

(Ðặng Thế Dũng)

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page