Bài giảng của ÐTC Beneđitô XVI

trong Thánh Lễ Nửa Ðêm

Giáng Sinh 2005

 

Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines

 

Bài giảng của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI trong Thánh Lễ Nửa Ðêm Giáng Sinh 2005.

(Radio Veritas Asia 25/12/2005) - Quý vị và các bạn thân mến. Trong bài giảng Thánh Lễ Nửa Ðêm Giáng Sinh 2005, ÐTC Bênêđitô XVI đã giải thích ba điểm chính: Con Trẻ Bêlem là Con Thiên Chúa, Con trẻ BêLem là ánh sáng, Con Trẻ Bêlem là hoàng tử hoà bình. Kính mời quý vị và các bạn theo dõi bản dịch tiếng Việt nguyên văn bài giảng của ÐTC:

 

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa phán với Chúa tôi: "Con là Con Cha, hôm nay Ta đã sinh ra Con". Với những lời trên của Thánh Vịnh thứ 2, Giáo Hội bắt đầu Thánh Lễ Canh Thức Giáng Sinh, trong đó chúng ta cử hành việc giáng sinh của Ðấng cứu chuộc chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, trong máng cỏ Bêlem. Xưa kia, Thánh Vịnh này thuộc về nghi thức phong vương cho vị Vua của Giuda. Dân Israel, vì sự tuyển chọn của mình, cảm thấy một cách đặc biệt, mình như là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa nhận làm con. Xét vì vị Vua là nhân cách hoá đại diện cho toàn dân, nên việc phong vương cho Ngài đã được thực hiện như là một hành động long trọng của Thiên Chúa nhìn nhận nhà vua; theo một nghĩa nào đó, nhà Vua được liên hệ vào trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa. Trong đêm BêLem, những lời này, xưa có tính cách như là lời biểu lộ một niềm hy vọng, hơn là nói lên một thực tại đang hiện diện, nay mặc lấy một ý nghĩa mới và không ngờ trước được. Con Trẻ trong máng cỏ là thật Con Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là hiện hữu cô đơn, nhưng là một cộng đoàn tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Còn hơn thế nữa, trong Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, chính Thiên Chúa trở nên con người. Thiên Chúa Cha nói với Ngài như sau: "Con là Con Ta". Cái hôm nay bất biến hằng hữu của Thiên Chúa đã xuống nhập vào trong cái hôm nay chóng qua của thế giới và lôi cuốn cái hôm nay mau qua của chúng ta vào trong cái hôm nay bất biến hằng hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là thật cao cả đến độ ngài có thể trở nên nhỏ hèn. Thiên Chúa là thật quyền năng, đến độ có thể trở nên yếu đuối, không quyền hành và đến gặp chúng ta như một con trẻ không gì tự vệ, ngõ hầu chúng ta có thể yêu thương Ngài. Thiên Chúa là thật tốt lành đến độ Ngài từ bỏ vinh quang Thiên Chúa và hạ mình sinh xuống trong máng cỏ, ngõ hầu chúng ta có thể gặp đuợc ngài và ngõ hầu sự tốt lành của ngài chạm đến chúng ta, đuợc thông truyền cho chúng ta, và tiếp tục tác động qua trung gian chúng ta. Giáng Sinh là như thế. "Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con". Thiên Chúa đã trở nên một con người sống giữa chúng ta, ngõ hầu chúng ta có thể sống với Ngài, trở nên giống như Ngài. Ngài đã chọn làm Con Trẻ trong Máng Cỏ, như một dấu chỉ cho chúng ta biết Ngài; Ngài là như thế. Trong cách thức như thế, chúng ta học cách biết được Ngài. Và trên mỗi con trẻ, có chiếu toả một chút tia sáng nào đó của cái hôm nay, của sự hiện diện gần gủi của Thiên Chúa mà chúng ta cần yêu mến và vâng phục - phải trên từng con trẻ, kể cả con trẻ chưa được sinh ra.


ÐTC Bênêđitô XVI quỳ cầu nguyện trước Máng Cỏ Hài Ðồng trong Thánh Lễ nửa đêm Giáng Sinh 2005.


Chúng ta hãy lắng nghe lời trích thứ hai từ phụng vụ Thánh Lễ Nửa Ðêm Giáng Sinh, từ sách Tiên Tri Isaia như sau: "Trên những ai sống trong vùng đất tăm tối, một ánh sáng chiếu toả lên" (9,1). Ngôn ngữ "ánh sáng" thắm nhập trọn cả phụng vụ của Thánh Lễ này. Ánh sánh cũng vừa được nhắc đến trong đọan trích từ thư của thánh Phaolô gởi cho Titô (2,11) như sau: "Ân sủng đã xuất hiện". Cụm từ "đã xuất hiện", trong tiếng hy lạp và trong khung cảnh này, nói lên cùng một điều mà tiếng Do thái diễn tả bằng cụm từ "ánh sáng chiếu toả": sự xuất hiện - sự hiển linh - là việc ánh sáng Thiên Chúa tràn ngập vào trong thế gian đầy bóng tối và đầy những vấn đề không được giải quyết. Cuối cùng, phúc âm tường thuật cho chúng ta rằng vinh quang Thiên Chúa xuất hiện cho các mục đồng và "bao phủ họ trong ánh sáng" (Lc 2,9). Nơi đâu xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa, thì ở đó ánh sáng được chiếu toả trong thế gian. "Thiên Chúa là ánh sáng và nơi Ngài không có bóng tối." Thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết như thế (1 Gn 1,5). Ánh sáng là nguồn mạch sự sống.

Nhưng trước hết ánh sáng có nghĩa sự hiểu biết, có nghĩa là sự thật, đối nghịch lại với bóng tối của sự dối trá và ngu dốt. Như thế, ánh sáng làm cho chúng ta sống, chỉ cho chúng ta biết đường đi. Nhưng sau đó, ánh sáng, -- xét như nó toả ra sức nóng, -- thì cũng có nghĩa là tình yêu thương. Nơi đâu có tình yêu thương, thì ở đó xuất hiện ánh sáng trong thế gian; nơi nào có sự thù hận, thì ở đó thế giới chìm trong bóng tối. Phải, nơi máng cỏ Bêlem, đã xuất hiện ánh sáng lớn mà thế gian đang đợi chờ. Nơi Con Trẻ nằm trong máng cỏ, Thiên Chúa biểu lộ vinh quang Ngài, -- vinh quang của tình yêu trao ban chính mình và tự cởi bỏ mọi sự huy hoàng để hướng dẫn chúng ta trên con đường tình thương. Ánh sáng Bêlem không bao giờ bị dập tắt. Qua các thế kỷ, ánh sáng BêLem đã chạm đến con người nam nữ, "đã bao phủ lấy họ trong ánh sáng". Ở đâu phát sinh đức tin vào Con Trẻ, thì ở đó cũng trổ sinh tình thương bác ái, trổ sinh lòng tốt lành đối với kẻ khác, trổ sinh sự chú ý cung ứng trợ giúp trước cho những kẻ yếu đuối và đau khổ, và trổ sinh hồng ân tha thứ. Từ Bêlem, ánh sáng, tình yêu thương, sự thật, thấm nhuần các thế kỷ. Nếu chúng ta nhìn nào các thánh - từ thánh Phaolô đến thánh Agostinô cho đến thánh Phanxicô và thánh Domenico, từ thánh Phanxicô Saverio và thánh Têrêsa Avila đến Mẹ Têrêsa Calcutta - chúng ta nhìn thấy sự tốt lành tuôn đổ như dòng sông, nhìn thấy con đuờng ánh sáng, luôn luôn chiếu sáng lên khi chạm đến mầu nhiệm Bêlêm, chạm đến vì Thiên Chúa đã trở thành Con Trẻ. Ðối lại với bạo lực của thế giới này, Thiên Chúa biểu lộ lòng tốt lành của Ngài, nơi Con Trẻ, và mời gọi chúng ta sống theo Con Trẻ.

Cùng với cây Giáng Sinh, những người bạn chúng ta từ Áo quốc cũng đã mang đến cho chúng ta một ngọn đuốc nhỏ mà họ đã thắp lên từ Bêlem, để nói với chúng ta rằng: Mầu Nhiệm Giáng Sinh đích thật là ánh sáng nội tâm đến từ Con Trẻ BêLem. Chúng ta hãy để cho ngọn lửa nội tâm nầy được thông truyền cho chúng ta, thắp lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa lòng nhân lành của Thiên Chúa; với tình thương của chúng ta, chúng ta tất cả hãy mang ánh sáng đến trong thế gian! Chúng ta đừng để cho ngọn lửa cháy sáng này bi tắt đi vì những dòng lạnh lẽo của thời đại chúng ta! Chúng ta hãy gìn giữ ngọn lửa này cách trung thành và chúng ta cũng hãy trao ban ngọn lửa này cho kẻ khác! Trong đêm giáng sinh, trong đó chúng ta hướng về Bêlem, chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho nơi Ðấng Cứu Chuộc chúng ta đã giáng sinh và cho tất cả mọi người đang sinh sống và chịu đau khổ tại mảnh đất này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hoà Bình tại Thánh Ðịa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn đến mảnh đất rất yêu dấu của Chúa, là quê hương của Chúa. Xin hãy làm cho ánh sáng của Chúa chiếu toả nơi đó! Xin hãy làm cho hoà bình của Chúa đến hiện diện nơi đó!

Giờ đây với từ ngữ "hoà bình", chúng ta nói đến cụm từ - chìa khoá thứ ba của phụng vụ Ðêm Thánh Giáng Sinh. Con trẻ mà Tiên Tri Isaia loan báo trước, cũng được chính tiên tri gọi là "hoàng tử của Hoà Bình". Vương Quốc của Ngài được mô tả với đặc điểm như sau: "hoà bình ngự trị sẽ không bao giờ cùng". Trong phúc âm, "vinh danh Thiên Chúa trên trời" và "bình an dưới thế" đã được loan báo cho các mục đồng. Trước đây, bản dịch Kinh thánh là "bình an dưới thế... cho người thiện tâm"; trong bản dịch mới, được đổi lại là... "cho mọi người được Chúa yêu thương". Thử hỏi sự thay đổi nầy có nghĩa là gì? Phải chăng người ta không còn quan tâm gì đến "thiện chí" nữa? Nhưng tốt hơn chúng ta hãy đặt câu hỏi như sau: "Ðâu là những con người mà Thiên Chúa yêu thương và tại sao Thiên Chúa yêu thương họ? Phải chăng Thiên Chúa có thái độ thiên vị? Phải chăng Ngài yêu thương vài người và bỏ rơi những kẻ khác cho mặc kệ họ? Phúc âm trả lời cho những câu hỏi trên, bằng cách chỉ cho chúng ta biết đích danh vài nhân vật được Thiên Chúa yêu thương. Ðó là những con người cụ thể - như Mẹ Maria, Thánh Giuse, Bà Êlisabeth, Ông Zacharia, tiên tri Simêon, và bà Anna, vân vân... Và còn phải kể đến hai nhóm người nữa: đó là nhóm các mục đồng và nhóm các nhà thông thái từ phương Ðông, mà người ta gọi là các Vua. Trong đêm giáng sinh này, chúng ta hãy dừng lại chiêm ngắm các mục đồng. Thử hỏi những con người này thuộc về mẫu người nào? Trong môi trường sống của các ngài, các mục đồng là những kẻ bị khinh dễ; người ta kể họ như là những kẻ ít được tin tưởng; và trong các toà án, họ không được nhìn nhận như những kẻ có quyền làm chứng. Vậy, thật ra họ là ai? Chắc rằng các mục đồng đây không phải là những con người thánh thiện nổi tiếng, nếu chúng ta hiểu sự thánh thiện đó theo nghĩa đây là những con người có những nhân đức anh hùng. Họ là những kẻ có tâm hồn đơn sơ. Phúc âm làm nổi bật một đặc điểm, mà sau này, --- theo lời dạy của Chúa Giêsu, --- sẽ có vai trò quan trọng: đó là những con người đang canh thức. Trước hết, chúng ta hiểu điều nầy theo nghĩa bên ngoài: đó là ban đêm họ thức canh gần bên đàn chiên. Nhưng còn có ý nghĩa sâu xa hơn: đó là những người sẵn sàng đón nhận Lời Chúa. Ðời sống họ không đóng kín trong cõi riêng tư; tâm hồn họ mở rộng. Theo một cách nào đó, trong tận thâm tâm sâu xa nhất, các ngài đang chờ đợi Chúa. Sự canh thức của họ có nghĩa là sự sẵn sàng - sẵn sàng lắng nghe, sẵn sàng lên đường; họ đang chờ đợi ánh sáng đến chỉ cho họ biết đường đi. Ðây là điều làm Thiên Chúa ưa thích. Thiên Chúa yêu thương tất cả, bởi vì tất cả là những tạo vật của Ngài. Nhưng có những người đóng kín tâm hồn họ. Tình yêu Thiên Chúa không gặp được nơi họ bất cứ sự tiếp đón nào. Họ tưởng rằng không cần đến Thiên Chúa; họ không muốn có Ngài nữa. Còn những kẻ khác thì phải chịu khổ vì thái độ khước từ trên, mặc dù chính những người này có lẽ cũng là những kẻ tội lỗi và khốn cùng trên bình diện luân lý. Những con người này chờ đợi Thiên Chúa. Họ biết họ cần đến lòng tốt lành của Thiên Chúa, cả khi họ không có một ý niệm rõ ràng về Ngài. Trong tâm trí họ đang mở rộng để chờ đợi, ánh sáng của Thiên Chúa có thể đi vào, và cùng với ánh sáng có sự bình an. Thiên Chúa đi tìm những ai mang đi và thông truyền hoà bình của Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa hãy làm sao để Ngài không bắt gặp tâm hồn chúng ta trong tình trạng đóng kín. Chúng ta hãy làm sao để có thể trở thành những kẻ tích cực mang lấy sự bình an của Chúa trong chính thời đại chúng ta đang sống.

Nơi người kitô, từ ngữ "hoà bình" có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa: từ ngữ này trở thành danh gọi để chỉ về bí tích Thánh Thể. Trong Thánh Thể có hiện diện sự bình an của Chúa Kitô. Một "mạng lưới hoà bình" được trải rộng trên toàn thế giới, nhờ qua tất cả những nơi nào bí tích Thánh Thể được cử hành. Những cộng đoàn tựu lại quanh bí tích Thánh Thể, kết thành một "vương quốc của hoà bình" rộng lớn như thế giới. Khi chúng ta cử hành Thánh Thể, chúng ta gặp nhau tại Bêlem, trong "Nhà của Bánh". Chúa Kitô hiến thân mình cho chúng ta, và như thế trao ban cho chúng ta sự bình an của Ngài. Ngài ban cho chúng ta bình an, ngõ hầu chúng ta mang lấy ánh sáng của hoà bình trong cõi thâm sâu tâm hồn chúng ta và thông truyền hoà bình đó cho kẻ khác; và ngõ hầu chúng ta trở nên những kẻ hoạt động cho hoà bình và như thế góp phần cho nền hoà bình thế giới. Vì thế chúng ta hãy cầu nguyện như sau:

Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành lời Chúa hứa. Xin hãy làm sao để hoà bình được nẩy sinh nơi nào có sự bất hoà! Xin hãy làm sao để tình thương phát sinh nơi nào hận thù ngự trị! Xin hãy làm sao để ánh sáng bùng lên nơi nào tối tăm thống trị. Xin Chúa hãy làm cho chúng con trở thành những kẻ mang lấy hoà bình Chúa. Amen.

 

(bản dịch Việt ngữ của Ðặng Thế Dũng)

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page