Bài Suy Tư của
ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
về Sứ điệp Ðức Mẹ Lavang
Prepared for internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Bài Suy Tư của
ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận về Sứ điệp Ðức Mẹ
Lavang.
Roma - 30.01.2002
- Tuần Tu đức dành cho các Linh mục, Tu sĩ nam nữ hải ngoại,
do Ðức Ông Giuse Ðinh dức Ðạo, Giám đốc Văn phòng phối
kết mục vụ Cộng đồng công giáo Việt nam Hải ngoại, tổ chức,
đã được khai mạc tại Trung Tâm quốc tế linh hoạt Truyền
giáo, vào tối thứ ba, ngày 29 tháng giêng năm 2002, bằng thánh
lễ và cuộc gặp gỡ giới thiệu các thành phần tham dự.
Số tham dự lần
này là 55 vị, không kể một số ở Roma tham dự, nhưng không
chính thức ghi tên. 55 vị tham dự đến từ các quốc gia sau đây:
Canada, Ðức, Ý, Nã uy, Philippines, Thụy sĩ, Ðài Loan, Hoa kỳ và
Việt Nam.
Thứ tư 30.01.2002,
ban sáng, các vị tham dự
thông công buổi tiếp kiến chung
tại Thính đường Phaolô VI. Ban chiều, lúc 15:45, ÐHY Phanxicô
Xaviê Nguyễn văn Thuận, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công
lý và Hòa bình, giúp suy tư về "Sứ điệp Ðức Mẹ La Vang".
Sau ít phút giải lao, ÐHY tiếp tục nói về Sứ điệp Ðức Mẹ
Lavang. Lúc 18:15, ÐHY chủ tế thánh lễ đồng tế với sự tham
dự của các Linh mục và Tu sĩ nam nữ. Sau đó, ÐHY dùng bữa
tối thân mật với anh chị em tham dự Tuần Tu đức.
Trong bài trước
đây chúng tôi chỉ lược
tóm 10 điểm chính của Sứ điệp Ðức Mẹ La Vang của ÐHY
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, không có phần giải thích. Hôm
nay chúng tôi xin trình bày với quý vị và các bạn
nội dung chi tiết của từng điểm trong bài Sứ điệp
Ðức Mẹ La Vang đã được ÐHY giải thích, chiều thứ tư 30/01/2002
cho anh chị em tham dự Khóa Tu đức.
1. Ðiểm thứ
nhất của Sứ điệp Ðức Mẹ Lavang là "Bí quyết của việc
cầu nguyện". - Hiện ra tại Lavang với các tín hữu trong
lúc bị bách hại, Ðức Mẹ khuyên khích con cái cầu nguyện.
"Các con đến đây để cầu nguyện, để xin ơn trung thành với
đức tin". ÐHY nói:"Chúng ta đừng bao giờ quên cầu nguyện".
Rồi ngài kể lại gương cầu nguyện của ÐTC Gioan Phaolô II. Có
lúc ÐTC cầu nguyện nhiều giờ trong đêm và phủ phục trên
nền nhà nguyện. Càng gặp vấn đề khó khăn, lớn lao phải
giải quyết, ngài càng gia tăng việc cầu nguyện. Chắc chắn nhờ
vào việc cầu nguyện nhiều và sống thân mật với Chúa như
vậy, ÐTC đã làm được nhiều công việc vĩ đại và gây
ngạc nhiên trên cả thế giới. Trong diễn văn đọc cho các
Giám mục Ðài Loan đến Roma viếng
Tòa Thánh, hôm 29/01/2002, như chúng tôi đã tường thuật, ÐTC
nhắc lại lời Thánh Gioan Crisostomo, Giám mục Tiến sĩ , nói rằng:
"Không gì sánh được với lời cầu nguyện, bởi vì lời
cầu nguyện làm được những cái không thể làm
được; bởi vì lời cầu nguyện làm cho cái khó khăn trở
nên dễ dàng" (L' Osservatore Romano, 30/01/2002 ).
Thế giới ngày
nay đi đến sa đọa về đạo đức, luân lý, chạy theo vật chất,
bởi vì con người không cầu nguyện nữa, bởi vì con người
muốn loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài xã hội. Vì con người không
thể loại bỏ Thiên Chúa được, con người
tìm mọi cách tránh xa Ngài,
quên hẳn sự hiện diện của Ngài trong Vũ trụ và trong
đời sống, đàn áp, bách hại, tiêu diệt tôn giáo hoặc giới
hạn tôn giáo vào lãnh vực tư riêng ... để dễ theo những
đòi hỏi của thể xác. Tội lớn hơn cả không phải chế độ
vô thần (người vô thần hoàn toàn trên thế giới này chỉ
khoảng 5%), nhưng là tội ngu dốt về tôn giáo, về giáo lý,
tội lãnh đạm tôn giáo mỗi ngày mỗi lan rộng thêm...
Cha Rudolf Graber,
tác giả cuốn sách nhỏ: "Năm tai họa mới trong Giáo hội
ngày nay", trong đó tai họa đầu tiên là "sự biến mất dần
dần việc cầu nguyện" không những nơi người giáo dân, trong các gia
đình công giáo, nhưng cả trong Hàng giáo sĩ , Tu sĩ nam nữ nữa.
Có người nói: tôi không có giờ để cầu nguyện, để dự
thánh lễ, để lần hạt Mân côi... Có đúng vậy không? Trong
lúc đó, tôi có thì giờ để giải trí, tôi có thì giờ để
coi TV, tôi có thì giờ để trò chuyện với bà con, bạn hữu....
Tại sao tôi lại không tìm được ít phút trong ngày, nhất là
ban sáng và ban tối để cầu nguyện riêng, để cầu nguyện với
gia đình, với cộng đoàn?
Mỗi người
trong chúng ta tự kiểm thảo về bổn phận quan trọng này và
quyết tâm tuân theo giáo huấn của Mẹ Lavang: "Các con đến
đây để cầu nguyện". Khi hiện ra ở Lộ đức hay Fatima, Mẹ
Maria luôn luôn nhắc lại cho con cái:
"Hãy ăn năn đền tội, hãy trở lại với Thiên Chúa,
hãy đọc kinh Mân côi, hãy thi hành sứ điệp của Mẹ". Sứ
điệp của Mẹ, chính là sứ điệp của Chúa Giêsu đã nhiều
lần nói lên trong Phúc Âm: "Các con hãy cầu nguyện luôn
luôn. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa chước cám
dỗ". Chúng ta chỉ muốn được ơn này, ơn khác, nhưng lại
không muốn mở miệng, hé môi cầu xin.
Thánh Alphonsô quả quyết: "Ai cầu nguyện, sẽ được cứu
rỗi. Ai không cầu nguyện sẽ bị hư mất".
2. Giáo huấn
thứ hai của Ðức Mẹ Lavang là "Sống tinh thần thơ ấu".
Ðây là tinh thần đã được chính Chúa Giêsu đề cao trong
Phúc Âm: "Nếu các con không trở nên như trẻ thơ, các con
sẽ không được vào Nước Trời". Thánh Têrêsa Hài Ðồng
Giêsu đã sống tinh thần này. Trong Ngày thế giới Thanh niên
1997 tại Paris, ÐTC đã loan báo "tôn phong Thánh Nữ lên bậc
Tiến sĩ Hội Thánh", để đề cao cách riêng cho giới trẻ
tinh thần thơ ấu, đơn sơ, khiêm tốn, phú thác. Mẹ Maria đã
sống đời khiêm tốn, đơn sơ, phú thác, khó nghèo. "Lạy
Mẹ Lavang khiêm tốn, xin nghe con mọn thở than mấy lời".
3. Giáo huấn
thứ ba: "Mầu nhiệm Thánh giá"ù - Khi hiện ra tại Lavang
trong lúc các tín hữu bị bách hại, Mẹ nhắn nhủ con cái:
"Các con hãy vui lòng chịu gian khổ". Thánh Giá Chúa ban ơn
cứu độ. Chúng ta hãy nhớ lại: "Mẹ đã đứng dưới chân
Thánh giá Chúa Giêsu và đã thông công vào cuộc Tử nạn
của Ngài". Chúng ta nhớ
lại: Ngay từ các thế kỷ dầu cho đến lúc này,
thế kỷ XXI, Giáo hội Chúa vẫn bị bách hại. Chúa đã
báo trước: "Họ đã bách hại Cha, họ cũng sẽ bách hại
các con. Họ đã ghét Cha, họ cũng sẽ ghét các con". "Ai
muốn theo Cha, hãy từ bỏ chính mình, vác Thánh giá hằng ngày
và theo Cha". Người tín hữu Kitô không thể tránh khỏi thánh
giá trong đời sống hằng ngày. Lãnh nhận mọi thánh giá lớn
nhỏ Chúa gủi cho, tức là cộng tác với Người trong công
việc cứu chuộc.
4. Giáo huấn
thứ bốn là sống "Hoàn
toàn thuộc về Mẹ". Nghĩa là thuộc về Mẹ cách tuyệt đối.
Ðây là khẩu hiệu của ÐTC: "Totus Tuus" (hoàn toàn thuộc về
Mẹ). Ngài đã sống theo tinh thần phú thác hoàn toàn của Thánh
Grignon de Montfort và tinh thần của Thánh Maximiliano Kolbe. Trong
chuyến viếng thăm mục vụ tại miền Tây nước Pháp tháng 9
năm 1996, ÐTC đã đích thân đến kính viếng mộ Thánh Grignon
de Montfort. ÐHY Phanxicô quả quyết như sau: "Tất cả Triều Giáo
Hoàng của ngài là "Totus Tuus", hoàn toàn trong tay Mẹ và
ngài đã được Mẹ dẫn dắt từng bước và che chở trong
mọi hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, cách riêng trong vụ mưu sát
ngày 13 tháng 5 năm 1981. Chính ngài xác nhận: "Ðức Mẹ
Fatima đã cứu sống tôi". Và ngày 12-13 tháng 5 năm 1982,
Ðức Gioan Phaolô II hành hương Fatima để tạ ơn Mẹ và gắn
viên đạn của ngày 13.5.1981 vào triều thiên của tượng
Ðức Mẹ ở Ðền thánh Fatima.
5. Giáo huấn
thứ năm "Phục vụ người nghèo khổ". "Thánh Thần ngự
xuống trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho các nguời
nghèo khổ ...". Lời Tiên tri Isaia, được Chúa đọc lên
trong nguyện đường Do thái và áp dụng vào chính mình. Mẹ đã
đến với con cái Mẹ trong cơn bách hại
ở giữa rừng xanh
thanh vắng, không nhà cửa, không dân cư, thiếu thốn mọi sự.
Giáo hội theo
gương Chúa, ngay từ ngày thành lập, luôn luôn dành ưu tiên
cho các người nghèo khổ, các người bị loại ngoài lề xã
hội, các người đau khổ, tàn tật, mồ côi, góa bụa... Song
song với việc rao giảng Tin Mừng, Giáo hội thiết lập trường
học, nhà thương, viện mồ côi, trại cùi, viện dưỡng lão
... để làm giảm bớt những đau khổ của người dân. Ngày
nay Giáo hội vẫn tiếp tục các công việc từ thiện bác ái
này qua Hội đồng Tòa Thánh "Ðồng Tâm" (Cor Unum), Hội
Caritas quốc tế, quốc gia, và giáo xứ... và nhiều cơ quan khác
như Quỹ cứu nạn hạn hán trong miền Sahara, Quỹ phát triển tại
Châu Mỹ Latinh. Sau Công đồng chung Vatican II, Giáo hội khuyến
khích các con cái của mình sống đơn sơ, nghèo khó hơn. Trong
suốt năm Toàn xá, bên cạnh bốn nhà thờ cả, Ủy ban Năm
Thánh, theo ý muốn của ÐTC, đã tổ chức những bữa ăn phát
không cho các người nghèo: 200 bữa bên cạnh Ðền thờ Thánh
Phêrô và 100 bữa bên cạnh ba Ðền thờ khác: Thánh Phaolô
ngoài Thành, Thánh Gioan in Laterano và Santa Maria Maggiore (Ðức Bà
Cả).
ÐHY Phanxicô nói: "Người công giáo Việt Nam hãnh diện về hai gia tài quí báu: Ðền Thánh Ðức Mẹ Lavang và các Thánh Tử đạo". Nhưng thử hỏi chúng ta, người công giáo Việt Nam, đã sống như thế nào, để xứng đáng với hai gia tài quí báu này? Tổ chức các cuộc hành hương và rước kiệu linh đình bên ngoài không đủ. Xây cất nhà thờ, Ðền thánh huy hoàng kính Ðức Mẹ và các Thánh Tử đạo không đủ. Ðiều quan trọng là sống "Sứ điệp của Ðức Mẹ Lavang" , sống đức tin, trung thành với Chúa, với Giáo hội, theo gương các Thánh Tử đạo.
Sứ điệp
Ðức Mẹ Lavang đem đến cho con cái Việt Nam,
lúc Người hiện ra vào năm 1798. Vào năm 1998, Giáo hội
Việt Nam đã mừng trọng thể kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ hiện
ra. Hy vọng biến cố quan trọng này đã và còn sẽ đem lại
nhiều ơn ích cho Giáo hội và cho Quê hương.
6.
Xây dựng Giáo hội là điểm thứ sáu trong Sứ điệp của
Ðức Mẹ Lavang.
Mỗi lần hiện ra tại một địa điểm nào, như Lộ đức (1858)
hay Fatima (1917), Ðức Mẹ yêu cầu xây cất một nhà thờ kính
Mẹ. Dĩ nhiên những người
đến hành hương tại các nơi thánh được Ðức Mẹ hiện ra,
cần có nơi tụ họp nhau để cầu nguyện, nhất là để cử hành
phụng vụ. Nhưng "nhà thơ" màø Ðức Mẹ yêu cầu xây cất
đây, phải được hiểu theo ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nhà thờ
trong tiếng latinh là "Ecclesia". Ecclesia chỉ về nhà thờ, nhưng
cũng chỉ về Giáo hội nữa.
Vì thế Ðức
Mẹ Lavang yêu cầu con cái thiết lập Giáo hội, sống trong Giáo
hội, phát triển Giáo hội, yêu
mến, trung thành và hiệp
thông với Giáo hội. Ðể giải thích rõ hơn điểm nầy,
ÐHY Phanxicô kể lại: Thánh Phanxicô thành Assisi chiêm bao
thấy mình và các tu sĩ của Dòng đang nâng đỡ một Ðền thờ
sắp sụp đổ. Ngài đến xin ÐTC châu phê Dòng ngài lập ra.
ÐTC ưng thuận và trao cho Thánh nhân sứ vụ nâng đỡ Hội
Thánh, lúc đó đang sống trong sóng gió bão táp.
Ðền thờ Thánh Phanxicô và các Tu sĩ nâng đỡ đây,
tức là Giáo Hội. Giáo Hội, từ ngày thành lập đến nay,
trong hơn 20 thế kỷ, trải qua
biết bao gian khổ, bách hại. Giáo hội, người Mẹ đau khổ này,
cần sự nâng đỡ của con cái mình, nhất là bằng lời cầu
nguyện, lòng trung thành, hiệp thông
và yêu mến. Có một số người , xưng mình là con cái
Giáo hội, luôn luôn chỉ trích Giáo hội, vì họ không hiểu
Giáo hội là gì. Họ coi Giáo hội là những cơ quan, những tổ
chức bên ngoài của Giáo Triều Roma hay Giáo hội là Quốc
gia-Thành phố Vatican... Ðây là một sai lầm lớn lao. Giáo hội
là một đại gia đình là một cộng đồng gồm tất cả các
tín hữu đã lãnh Bí tích rửa tội và sống trong hiệp
thông. Giáo hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô và Chúa Giêsu là
Ðầu của Nhiệm thể này. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta là
Cây nho, các con là ngành nho". Vì thế chúng ta hiểu tại sao
biết bao nhiêu người nam, nữ, từ hơn 20 thế kỷ nay sẵn sàng
hy sinh tất cả cuộc đời phục vụ Giáo hội, đến độ hy sinh
cả mạng sống để trung thành
với Giáo hội. Ðức Mẹ Lavang đã có lý do để yêu cầu
con cái Mẹ thiết lập "Giáo hội", tức là cộng tác trong
việc mở rộng Nước Chúa, thiết lập và củng cố Giáo hội
khắp nơi.
7. Giáo huấn
thứ bẩy của Sứ điệp Ðức Mẹ Lavang: Thánh hóa Gia đình
và yêu mến Tổ quốc. ÐHY nói: "Gia đình là một thách
đố lớn lao của thời đại ta". Mọi người đều thấy: Gia
đình đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Tại nhiều
nước, nhà cầm quyền đưa ra những luật lệ, thay vì củng cố
gia đình, nền tảng của xã hội, tương lai của Ðất nước, lại
nhằm đi đến li tán và phá hủy gia đình. Biết bao gia đình
tan nát, biết bao nguời con mồ côi cha mẹ, biết bao trẻ em sống
đầu đường xó chợ, không được giáo dục trong tình yêu
thương đầm ấm của gia đình; biết bao trẻ em bị khai thác; biết
bao tội ác xẩy ra hằng ngày trên thế giới...
Muốn cải tổ xã hội, quốc gia, phải khởi sự từ gia
đình. Gia đình lành mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, an vui. Vì thế,
chúng ta thấy, từ ngày lên làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô
II luôn luôn quan tâm đến Gia đình và Hôn nhân. Ngài đã
thành lập Hội đồng Tòa Thánh phụ trách Gia đình và Hôn
nhân. Ngài đã lập Học viện bên cạnh Ðại Học Laterano ở
Roma, để chuyên việc nghiên
cứu về Hôn nhân và Gia đình. Ngài đã lập Ngày thế giới
Gia đình và ấn định cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình ba năm một lần, để cổ võ việc lành mạnh hóa
gia đình. Ngày thế giới các gia đình được tổ chức lần
đầu tiên tại Roma năm 1994 - Lần thứ hai tại Thành phố Rio
de Janeiro (Brazil), năm 1997 và lần thứ ba tại Roma, trong Năm Thánh
2000. Hiện nay Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình đang chuẩn bị
cuộc gặp gỡ thế giới lần thứ bốn về Gia đình được ấn định vào
năm 2003.
Ngoài gia đình,
Ðức Mẹ Lavang xin các con cái Mẹ hãy yêu mến Tổ quốc, Quê
hương của mình. Yêu mến Tổ quốc là một tâm tình thánh thiêng.
Yêu mến Tổ quốc, tức là sẵn sàng cộng tác với nhau xây
dựng một xã hội, một quốc gia
công bình, huynh đệ, liên đới hơn giữa mọi tầng lớp
xã hội. Người công giáo biết yêu mến Quê hương mình như
bất cứ người công dân nào. Lịch sử Việt Nam chứng minh
đã có nhiều người công giáo, trách nhiệm cao trong guồng máy
Quốc gia, đã biết bênh vực quyền lợi quốc gia mình như thế
nào. Người công dân công giáo cũng phục vụ Tổ quốc như
mọi công dân khác. Nhiều binh sĩ công giáo đã cùng với
anh em mình hy sinh tính mạng để bao vệ Tổ quốc, để tranh đấu
cho tự do, cho chủ quyền.
8. Ðoàn kết và
hiệp nhất: Ðây là giáo huấn thứ tám của Sứ điệp Lavang.
ÐHY nói: "Trước cuộc Tử nạn, Chúa Giêsu cầu xin cho các
môn đệ của Người: "Ut sint unum" (xin cho họ trở nên một).
Ngài nói thêm: "Sống dưới các
chế độ độc tài, không có tự do. Sống trong chế độ Dân
chủ, lại có nhiều chia rẽ, phe này, đảng khác, cãi lộn nhau,
đả phá nhau". Hiện ra tại Lavang, Mẹ đã qui tụ con cái, không
phân biệt lương giáo, từ Bắc đến Nam như anh chị em một nhà".
Người Việt Nam
chúng ta, trong gần một thế kỷ bị chia thành Bắc, Trung, Nam và
bị người ngoài đô hộ. Có lẽ vì thế khó đoàn kết, hiệp
nhất với nhau. Tâm trạng này còn kéo dài cho tới ngay nay và
có lẽ còn mạnh mẽ hơn trước. Những chia rẽ mạnh mẽ này
rất có thể gây nên do việc chia đôi Ðất nước năm
1954 thành hai miền Bắc-Nam. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản,
miền Nam theo chế độ Cộng hòa. Tuy được thống nhất từ năm
1975, nhưng cần nhiều thời gian mới gột bỏ được cái tâm
trạng chia rẽ kia. Chúng ta không nói đến những chia rẽ về
chính trị, ý thức hệ. Chỉ cần nhìn vào
Giáo hội và nhìn vào quá khứ, chúng ta sẽ thấy rõ những chia rẽ ngày nay mạnh mẽ hơn ngày xưa.
Năm 1933, Tòa
Thánh bổ nhiệm Vị Giám mục tiên khởi Việt Nam, Ðức Cha
Gioan B. Nguyễn Bà Tòng, người Nam, làm Giám mục đại diện
Tông Tòa coi sóc Giáo phận Phát diệm, không một ai than phiền
hay đặt câu hỏi: Tại sao không đặt một người Bắc, một người
chính đinh Phát diệm? Rồi năm 1936, Tòa Thánh lại bổ nhiệm
Ðức Cha Dominico Hồ ngọc Cẩn, người Trung, làm Giám mục đại
diện Tông Tòa coi sóc Giáo phận Bùi chu. Mọi người vui mừng
đón nhận, không một kỳ thị. Ðến năm 1938, Tòa Thánh bổ
nhiệm Ðức Cha Phêrô Ngô đình Thục, người Huế, làm Giám
mục Ðại diện Tông Tòa Giáo phận Vĩnh Long, không ai từ chối.
Ngày nay, việc bổ nhiệm Giám mục gặp nhiều khó khăn. Chúng
tôi chỉ xin nói đến những khó khăn do phía Công giáo mà
thôi. Có những vị, những
người Công giáo đặt ra những câu hỏi biểu lộ rõ ràng
chính cách kỳ thị: kỳ thị Bắc, Trung, Nam;
kỳ thị địa phương. Vị được giới thiệu hay bổ nhiệm
không phải là người Hà nội, không phải là người Huế,
không phải là người Saigon, không phải là người Cần thơ
hay Vĩnh Long v.v... Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin Giáo
hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Kỳ thị
không phải là Giáo hội duy nhất, cũng không phải Giáo hội
thánh thiện, càng không phải Giáo hội Công giáo (universalité)
và Tông truyền.
Suy tư về sứ điệp của Ðức Mẹ Lavang, chúng ta tự vấn lương tâm về giáo huấn Mẹ để lại: "Ðoàn kết, hiệp nhất". Nếu không có đoàn kết, hiệp nhất trong Giáo hội, thì đoàn kết, hiệp nhất trong quốc gia còn khó khăn hơn nữa, vì nhiều lý do khác nhau: tôn giáo, ý thức hệ, khuynh hướng chính trị, óc địa phương .... Chúa nói: "Nước nào chia rẽ, sẽ đi đến sụp đổ". Việc Mẹ Maria tụ họp anh chị em lương giáo tại Lavang là gương sáng cho chúng ta theo, để cùng nhau, mọi công dân trong nước, bất cứ thuộc tôn giáo, khuynh hướng chính trị nào ... hãy đoàn kết, hiệp nhất với nhau, vì Tổ quốc là gia tài chung của mọi người và mọi người có bổn phận bảo tồn, xây dựng, phát triển.
9. Ðiểm quan
trọng khác của Sứ điệp: "Rao giảng Tin Mừng". Ðây là
giáo huấn thứ chín của Ðức Mẹ Lavang
truyền lại cho con cái khi hiện ra tại nơi rừng xanh, thanh
vắng này.
ÐHY Phanxicô
cho biết: Trong thời Cộng hòa, các Giám mục Việt Nam đã có
chương trình lập Viện truyền giáo tại Lavang để đáp lại lời
yêu cầu của Ðức Mẹ và công việc được trao phó cho
Ðức Cha Philiphê Nguyễn Kim Ðiền, TGM Huế. Nhưng vì hoàn cảnh
Ðất nước, công việc đã được khởi sự bị
gián đoạn. Rao giảng Tin Mừng đây tức là đem Chúa đến
cho các anh chị em chưa biết Người, cách riêng tại Châu Á (xem
Ecclesia in Asia), tức là đem các giá trị cao quí của Tin Mừng
vào nền văn hóa của dân tộc. Tin Mừng không đi ngược lại
nền văn hóa của bất cứ dân tộc nào. Giáo hội đón nhận
mọi dân tộc và các nền văn hóa khác nhau. Việc rao giảng
Tin Mừng có bổn phận tôn trọng và giữ lại những gì là
"mỹ, thiện, chân" của các nền văn hóa địa phương, và
cũng có bổn phận thanh tịnh hóa những gì không phù hợp với
tinh thần Phúc Âm hoặc có tính cách dị đoan. Trong những ngày
vừa qua, theo các Giám mục Việt Nam kể lại trong dịp viếng thăm
Tòa Thánh (tháng Giêng năm 2002), có nhiều dấu hiệu hứa hẹn
một tương lai tốt đẹp cho
công việc truyền giáo tại Quê hương. Vẫn có nhiều người
trở lại, vì thấy những công việc của Giáo hội công giáo,
vì thấy những gương sáng của anh chị em Công giáo, cách riêng
trong những thời kỳ bị thiên tai, như những vụ bão lụt tại
miền Trung và miền Sông Cửu Long. Ngày nay, không riêng tại
Việt Nam, việc rao giảng Tin Mừng cần đến chứng nhân đời
sống gương mẫu hơn là lời giảng dạy. Chúa nói: "Các con
hãy chiếu dọi ánh sáng của các con trước mắt mọi người,
để họ thấy việc tốt lành các con làm, mà ca ngợi Cha các
con ở trên trời".
10. Giáo huấn sau cùng của Sứ điệp Ðức Mẹ La vang: "Chứng nhân hy vọng". Với giáo huấn này, Mẹ dạy con cái Mẹ hãy "hoàn toàn tin nhiệm và đặt mọi hy vọng nơi Mẹ". Mẹ đã hiện ra để an ủi con cái Mẹ trong cơn bách hại, Mẹ cũng sẽ theo dõi con cái Mẹ trên con đường lữ hành trần gian này và trong đời sống hằng ngày của các con cái Mẹ.